Tiền và hoạt động ngân hàng

pdf 230 trang Gia Huy 24/05/2022 1560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiền và hoạt động ngân hàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftien_va_hoat_dong_ngan_hang.pdf

Nội dung text: Tiền và hoạt động ngân hàng

  1. THÔNG TIN SÁCH - Tên sách: Tiền và hoạt động ngân hàng - Thể loại: Sách nghiên cứu - Tác giả: TS. Lê Vinh Danh - Nhà xuất bản: NXB Giao thông vận tải - Tổng số trang: 694 - Khổ giấy: A5 - Hình thức: Bìa mềm - In và nộp lưu chiểu: Quý III năm 2009 - Giá bìa: 125.000VND 1
  2. MỤC LỤC LỜI GIỚI THIỆU 5 LỜI NÓI ĐẦU 6 PHẦN I - TIỀN TỆ, CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ 8 Chương 1 - SỰ RA ĐỜI CỦA TIỄN TỆ 10 1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ 10 1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ 12 Chương 2 - HỆ THỐNG TIỀN TỆ 15 2.1. CÁC LOẠI TIỀN TỆ HIỆN NAY 15 2.1.1. Tiền có giá trị thực 15 2.1.2. Tiền quy ước 16 2.2. Hệ thống tiền tệ ngày nay 23 2.2.1. Tiền mạnh 24 2.2.2. Các loại tiền - tài sản khác 25 2.3. TIỀN TỆ TRONG TƯƠNG LAI 30 Chương 3 - CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA TIỀN TỆ 33 3.1. PHƯƠNG TIỆN TRAO ÐỔI 33 3.2 PHƯƠNG TIỆN BẢO TỒN GIÁ TRỊ 34 3.3. ÐƠN VỊ TÍNH TOÁN 35 3.4. PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN 36 3.5. CÔNG CỤ ĐỂ ĐIỀU TIẾT KINH TẾ 36 PHẦN II - HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 38 Chương 4 - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 39 4.1. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG SƠ KHAI 39 4.2. HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG GIAI ĐOẠN II 41 4.3. HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG GIAI ĐOẠN III 44 4.4. NGÂN HÀNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN ĐẠI 46 Chương 5 - HỆ THỐNG NGÂN HÀNG HIỆN NAY 50 5.1. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 50 5.1.1. Tính chất và cơ cấu tổ chức của ngân hàng trung ương 50 5.1.2. Mạng lưới của ngân hàng trung ương 60 5.2. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG GIAN 61 5.2.1. Các loại ngân hàng trung gian 63 5.2.2. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới 69 5.3. CÁC TỔ CHỨC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH KHÁC 71 5.3.1. Các tổ chức tín dụng 72 5.3.2. Hiệp hội cho vay và tiết kiệm 74 5.3.3. Các công ty bảo hiểm 75 5.3.4. Các công ty tài chính 77 5.3.5. Các quỹ tương trợ 77 5.3.6. Các quỹ trợ cấp và hưu trí 78 5.3.7. Các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán. 79 Chương 6 - HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 82 6.1. PHÁT HÀNH TIỀN 82 6.1.1. Nguyên lý của việc phát hành tiền 82 6.1.2. Các cách phát hành tiền 85 6.2. CHỦ NGÂN HÀNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG TRUNG GIAN 90 6.2.1. Trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các ngân hàng trung gian 90 6.2.2. Quản lý hoạt động dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng trung gian: 91 6.2.3. Cứu cánh cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng trung gian 96 6.3. CHỦ NGÂN HÀNG CỦA CHÍNH PHỦ 98 1
  3. 6.3.1. Mở tài khoản và đại lý tài chính cho chính phủ 98 6.3.2. Cố vấn về các chính sách tài chính cho chính phủ 102 6.4. QUẢN LÝ DỰ TRỮ QUỐC GIA 102 6.5. QUẢN LÝ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH QUỐC GIA 105 6.6. ĐIỀU TIẾT KINH TẾ VĨ MÔ 106 6.7. LỢI TỨC VÀ CHI TIÊU 108 Chương 7: HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG GIAN 112 7.1. BALANCE SHEET VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG BƯỚC ĐẦU CỦA MỘT NGÂN HÀNG. 112 7.2. PHÂN LOẠI VÀ QUẢN LÝ TÀI SẢN NỢ 116 7.2.1. Tiền gửi không kỳ hạn 116 7.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm 119 7.2.3. Các khoản vay ngắn hạn từ thị trường 121 7.2.4. Vay của ngân hàng trung ương 125 7.2.5. Vốn cổ phần và các khoản vay từ công ty mẹ 126 7.3. PHÂN LOẠI VÀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÓ 127 7.3.1. Dự trữ tiền mặt 128 7.3.2. Đầu tư vào chứng khoán: 141 7.3.3. Cho vay 143 7.3.4. Các loại tài sản có khác 147 7.4. LÃI SUẤT VÀ VẤN ĐỀ TỐI ĐA HÓA LỢI NHUẬN 150 7.4.1. Lãi suất 150 7.4.2. Vấn đề tối đa hóa lợi nhuận 159 7.5. VỐN CỔ PHẦN, THANH KHOẢN VÀ KHẢ NĂNG CHI TRẢ 165 7.5.1. Dự trữ và thanh khoản 165 7.5.2. ER và công thức BAUMOL - TOBIN 166 7.5.3. Vốn cổ phần, khả năng chi trả và tình trạng phá sản 167 7.6. BÁO CÁO HÀNG NĂM 173 Chương 8 - HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH CHỨNG KHOÁN 176 8.1. HÀNG HÓA CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 177 8.1.1. Khái niệm 177 8.1.2. Các loại hàng hóa 180 8.2. CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - CHỨNG KHOÁN 190 8.2.1. Phân loại theo cấp độ mua bán 191 8.2.2. Phân loại theo đặc trưng của hàng hóa 193 8.3. HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 196 8.3.1. Chủ thể của thị trường 197 8.3.2. Mua và bán trên thị trường 205 8.3.3. Quyết định của nhà đầu tư cuối cùng 214 8.4. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 223 8.4.1. Mua bán đứt 223 8.4.2. Mua, bán theo thỏa thuận mua lại và chuyển dịch tương đương 224 PHẦN III - TIỀN TỆ VÀ TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 227 Chương 9 - HỆ THỐNG TIỀN TỆ QUỐC TẾ 229 9.1. LỊCH SỬ CỦA HỆ THỐNG TIỀN TỆ QUỔC TẾ CẬN ĐẠI 229 9.1.1. Chế độ bản vị vàng 229 9.1.2. Thoả thuận Bretton Woods- tỷ giá trao đổi cố định 231 9.2. HỆ THỐNG TIỀN TỆ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI 234 9.2,1, Tỷ giá trao đổi linh hoạt 234 9.2.2. Thị trường ngoại tệ và sự xác định tỷ giá 238 Chương 10. THANH TOÁN QUỐC TẾ 271 2
  4. 10.1. CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC GIA 271 10.1.1. Khái niệm 271 10.1.2. Tính chất 271 10.1.3. Phương thức ghi chép trên cán cân thanh toán 272 10.1.4. Thành phần của cán cân thanh toán 273 10.2. TÀI KHOẢN ĐẦU TƯ LIÊN QUỐC GIA 278 10.2.1. Đầu tư trực tiếp 278 10.2.2. Đầu tư theo danh mục 279 10.2.3. Chuyển vốn ngắn hạn 279 10.2.4. Các hình thức đầu tư khác 280 10.3. CÁC KHOẢN SAI SÓT VÀ KHÔNG CHÍNH XÁC 280 PHẦN IV - TIỀN VÀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ 284 Chương 11 - CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 285 11.1. KHÁI NIỆM VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 285 11.2. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ VẤN ĐỀ CUNG ỨNG TIỀN 285 11.2.1. Nhu cầu về tiền tệ 286 11.2.2. Các cách định lượng nhu cầu về tiền 287 11.2.3. Quan điểm của John Maynard Keynes 292 11.2.4. Lý thuyết định lượng của Milton Friedman 294 Chương 12 - TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 299 12.1. LÝ THUYẾT CỦA JOHN MAYNARD KEYNES 299 12.1.1. Tác động của lãi suất đến sản lượng quốc gia 299 12.1.2. Hỗn hợp ISLM và chính sách tiền tệ 302 12.2. LẠM PHÁT 305 12.2.1. Bản chất của lạm phát 306 12.2.2. Nguyên nhân của lạm phát 311 12.2.3. Hậu quả hay cái giá của lạm phát 318 12.3. LẠM PHÁT - SUY THOÁI 325 12.3.1. Lạm phát suy thoái do chi phí đấy 325 12.3.2. Lạm phát suy thoái do cung ứng tiền tăng 326 12.3.3. Suy thoái từ các nguyên nhân khác 327 Chương 13 - CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT KINH TẾ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 329 13.1. KHÁI QUÁT LẠI ẢNH HƯỞNG CỦA CUNG ỨNG TIỀN ĐẾN NỀN KINH TẾ 329 13.2. VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 331 13.2.1. Mục tiêu của điều tiết 331 13.2.2. Các phương thức điều tiết kinh tế hiện nay 332 13.2.3. Các công cụ của điều tiết 339 13.3. KINH NGHIỆM ĐIỀU TIẾT KINH TẾ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ĐỨC (DEUTSCHE BUNDESBANK) 343 13.3.1. Tổng quan quá trình điều tiết kinh tế của Deutsche BundesBank (DBB) từ năm 1980 đến 1996. 344 13.3.2. Quá trình sử dụng các công cụ để điều tiết kinh tế 346 13.3.3. Kết luận 369 Chương 14 - CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CHÍNH TRỊ 372 14.1. CHU KỲ CHÍNH TRỊ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 372 14.2. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH TRỊ ĐẾN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 375 14.2.1. Nguyên nhân tác động 375 14.2.2. Các hình thức tác động của chính trị 376 14.3. MỨC ĐỘ ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ 379 3
  5. 14.4. TƯƠNG LAI CỦA HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 380 PHẦN V - THƯ MỤC THAM KHẢO VÀ TÀI LIỆU GỢI Ý ĐỌC THÊM 382 PHẦN VI - PHẦN DÀNH CHO SINH VIÊN (Câu hỏi và bài tập) 390 4
  6. LỜI GIỚI THIỆU Lâu nay, những cuốn sách về chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng bằng tiếng Việt có mặt trên các thư viện, tủ sách của các cơ quan nghiên cứu, trường học là khá nhiều, nhưng hiếm có cuốn nào có thể thay thế cho cuốn sách mà bạn đọc đang có trong tay - Tiền và hoạt động ngân hàng của tác giả Lê Vinh Danh, giảng viên Trường Đại học đại cương thuộc Đại học Quốc gia TP. HCM, bảo vệ luận án đề tài "Sự điều tiết kinh tế vĩ mô của Ngân hàng Trung ương". Cuốn sách là một chuyên khảo tương đối có hệ thống về tiền tệ và hoạt động ngân hàng với nguồn tài liệu khá phong phú, cập nhật, tư liệu chủ yếu đuợc thu thập thông qua Vụ Thông tin - Nghiên cứu và Phát triển của Ngân hàng Trung ương Thái Lan. Bằng một phong cách tiếp cận riêng, tác giả đã trình bày khá sinh động, có tính chất phổ thông hóa lịch sử quá trình phát sinh, phát triển cũng như chức năng, vai trò của tiền tệ và hoạt động ngân hàng cùng những kinh nghiệm quản lý, điều tiết của một số ngân hàng lớn của các nước trên thế giới. Cuốn sách cần dùng cho sinh viên và tất cả những ai quan tâm đến lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng, có nhiều thông tin bổ ích phục vụ cho việc nghiên cứu học tập. Xét thấy đây là cuốn sách hay và đáng để gửi tới những độc giả đang có nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động của hệ thống ngân hàng trong và ngoài nước, nhóm ebook chúng tôi đã tận dụng từng giờ từng phút rảnh rỗi của bản thân để cùng nhau thực hiện việc đánh máy, chỉnh sửa và dàn trang cuốn sách này. Nhóm ebook bao gồm: - nth34hn: đánh máy chương 1, chương 12, hỗ trợ đánh máy một phần chương 7 và chương 8, sửa lỗi chính tả và văn phạm, dàn trang, đóng gói ebook; - antonov9x: đánh máy chương 2; - aivy007: đánh máy chương 3 và chương 10; - petite_poney: đánh máy chương 4 và chương 11; - tieuhacphong: đánh máy chương 5; - kidcule: đánh máy chương 6; - trucduong1789: đánh máy chương 7; - hongthuha: đánh máy chương 8; - thetruongle và thuthaokt8x: đánh máy chương 9; - quyennguyen2012: đánh máy chương 13; - vkbritney: đánh máy chương 14; - BLDM: đánh máy phần kết (tài liệu tham khảo và bài tập), hỗ trợ đánh máy một phần chương 8. Xin trân trọng gửi tới tất cả thành viên của nhóm ebook lời cảm ơn chân thành nhất bởi sự tham gia nhiệt tình, đầy tinh thần trách nhiệm của các bạn đã giúp cuốn sách được hoàn thành trong thời gian sớm nhất. Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2010 Nhóm ebook 5
  7. LỜI NÓI ĐẦU Kinh nghiệm ở tất cả các nước phát triển cho thấy rằng những cải cách về hệ thống tài chính - tiền tệ - ngân hàng luôn luôn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định Bài học ở nhiều nước đang phát triển cũng cho thấy kết quả như vậy. Nơi nào, ở đâu, hoạt động ngân hàng - tiền tệ được hoàn thiện nhanh, nơi đó luôn luôn có tốc độ tăng trưỏng kinh tế cao và ổn định. Bởi vai trò chủ chốt của ngành này là cung ứng và đảm bảo một nền tảng tài chính tốt, ổn định cho cả đoàn tàu kinh tế. Vì lý do đó, việc đúc kết kinh nghiệm và học tập kinh nghiệm để bổ sung, hoàn chỉnh, đổi mới hoạt động tiền tệ - ngân hàng, trong những quôc gia mới bước vào giai đoạn phát triển như Việt Nam là vô cùng cẩn thiết. Càng mở rộng hiểu biêt và trao đổi kinh nghiệm, chúng ta cảng có nhiều thông tin và tư liệu tham khảo cẩn thiết để xác dịnh cách làm hợp lý nhất cho việc cải cách hệ thống tài chính - tiền tệ - ngân hàng trong nước. Theo cách nghĩ ấy, chúng tôi cố gắng biên soạn công trình mà các bạn đang có trong tay với hy vọng dóng góp phẩn nào vào nguồn thông tin, tư liệu hiện đang còn nhiều hạn chế ở trong nước vể “tiển và hoạt động ngân hàng” để bạn đọc rộng rãi, sinh viên các trường đại học, nhất là sinh viên chuyên ngành tài chính ngân hàng tham khảo và nghiên cứu. Cuốn sách Tiền và hoạt động ngân hàng được hình thành dựa vào những tư liệu vế lịch sử hoạt động của Hệ thống ngân hàng các nước Mỹ, Nhật, Ðức, Pháp, Anh, Hàn Quốc, Thái Lan, và Việt Nam Nguồn thông tin và số liệu, sự kiện được thu thập chủ yếu thông qua "Vụ Thông tin - Nghiện cứu và phát triển” của Ngân hàng trung ương Thải Lan (Bank of Thailand) nơi tác giả đã trực tiêp làm việc nhiều tháng trong thời gian học tại Đại học Chulalongkorn vào năm 1996. Thu hoạch đầ̀u tiên của người viết, qua nghiên cứu của bản thân là có rất ít sự khác nhau về nguyên tắc lẫn thực tiễn hoạt động giũa các ngân hàng (dù là ngân hàng trung ương hay ngân hàng trung gian) ở các nước đang phát triển với các nước đã phát triển. Nhằm hạn chế khó khăn và công sức trong thử nghiệm, tìm tòi, các nước đang phát triển rất chủ trọng học tập những kinh nghiệm của các nước đi trước. Chẳng hạn trước đây Mỹ đã từng học Anh, Nhật từng học Ðức, Hà Lan và Bỉ, Hàn Quốc thì học cả Hoa Kỳ và Nhật về phương thức tổ chức và hoạt động tài chính - ngân hảng. Bởi vậy, nghiên cứu tiền và hoạt động ngân hàng ở nhũng nước đã phát triển, về mặt nguyên lý, không khác nhiểu với nghiên cứu điều ấy tại Việt Nam. Hơn nũa, trong quá trình đi lên để hoàn thiện mình, hệ thống tài chính - tiển tệ - ngân hàng Việt Nam rõ ràng là cẩn học tập rất nhiểu kinh nghiệm từ nước ngoải. Khi đã xác định rằng chúng ta cần học tập nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài thì đương nhiên sự lựa chọn hợp lý phải là học tập các mô hình được xem là tối ưu trên thế giới hiện nay. Ðó là lý do bạn dọc có thể thấy vì sao chủng tôi dẩn chứng về hoạt dộng, số liệu và thông tin ở các nước như Hoa Kỳ, Nhật, Đức, Pháp, và Anh nhiều hơn Việt Nam. Ðể tiện cho việc theo dõi, chúng tôi chia nội dung sách ra làm 6 phần. Phẩn 1 gồm 3 chương, nghiện cứu những nhận thức hiện nay về tiến tệ. Phẩn 2 dành cho hoạt động ngân hàng gồm 5 chương, trình bày những lề lối tổ chức, những hoạt động cơ bản của Ngân hàng trung ương, Ngân hàng thương mại, Các công ty tài chính và thị trường tài chính, Chứng khoán. Phẩn 3 có 2 chương phân tích về hệ thống tiền tệ quốc tế và cán cân thanh toán. Phẩn 4 có 3 chương giải thích vể những bước hình thành chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương: Các mặt ảnh hưởng khác nhau của nó đến đời sống kinh tế và xã hội; Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Ngân hàng trung ương; Mối tương tác giữa chính trị và chính sách tiển tệ, cũng như triển vọng của hoạt động ngân hàng và tiền tệ trong tương lai. Phẩn 5 là thư mục tham khảo chủng tôi đã sử dụng trong quá trình viết. Ban đọc có thể tìm thấy ở đây những tài liệu, sách và căn cứ đã được dùng để nghiên cứu cho mỗi chương. Bên cạnh đó, danh mục còn có ý nghĩa như "những giới thiệu đoc thêm, để các bạn có thể tự tìm hiểu sâu hơn thế giới “tiền và hoạt động ngân hảng”. Phấn cuối cùng, Phẩn 6, 6
  8. là 240 câu hỏi gợi ý suy nghĩ và bài tập mà chủng tòi xác định là dành riêng cho sinh viên. Tuy nhiên, mổi người quan tâm, cũng có thể sử dụng để trắc nghiệm nhũng tiếp thu có được sau khi đọc qua các phần. Chúng tôi quan niệm rẳng: “Moi thứ trên đời đểu có bài học riêng khi và chỉ khi chúng ta biết tìm ra nỏ”. Sách vở cũng vậy, dủ bất kỳ loại hình nào cũng mang không nhiều thì ít chất liệu của suy tư và tâm huyết. Bài học đầu tiên mà mổi người trong chủng ta có thể học được từ khoa học là “Ðừng bao giờ áp đặt cách nghĩ của mình cho người khác. Nếu quan diểm của anh thực sự tốt và có giá trị, hãy để tự họ chấp nhận”. Do vậy, những gì được trình bày dưới đây không áp đặt tư duy với bất kỳ ai. Nó xuất phát từ kinh nghiệm đúc kết, thông tin, kiến thức và những trăn trở thực sự của người viế́t. Và nếu có chút giá trị ấy, hy vọng nó sẽ xứng đáng là tải liệu có ích cho những ai quan tâm đến tiền và hoạt động ngân hàng. Qua cuốn sách này, chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự giúp đỡ nhiệt tinh của Trướng đại học Chulalongkorn, của Ngân hàng trung ương Thải Lan, Ngân hàng Bangkok, Ngân hàng Siam City, Thị trường chứng khoán, Trung tâm thông tin Thái Lan; đối với những hướng dẫn, chỉ bảo động viên của các nhà khoa học, cũng như đối với Nhà Xuất bản chính trị quốc gia Việt Nam trong việc tạo điểu kiện công bố kết quả nghiên cứu này. Ðại học Chulalongkom, Bangkok LÊ VINH DANH 7
  9. Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh PHẦN I - TIỀN TỆ, CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ Ngày nay, tiền là một hình thái hầu như quen thuộc với tất cả mọi người ở mọi nước khác nhau trên thế giới. Trong suy nghĩ của mỗi nguời, tiền chiếm một khoảng không gian nhất định từ nhỏ đến lớn. Ai cũng phải suy nghĩ về tiển, bởi vì hàng ngày, hàng tuần và hàng năm chúng ta tồn tại sinh hoạt và phát triển cá nhân dựa trên những giao dịch liên quan đến tiển. Trong một số cộng đồng coi trọng đạo đức thời xưa, tiền đã từng bị phê phán, bị nguyền rủa. Cung thời gian ấy và có thể cho đến hiện nay nhiều xã hội xem tiền là thước đo của cải, thước đo quyển lực, là lối đi cúa thành công và không ít cá nhân đã, đang sùng bái tiển, coi tiển là mục đích cao nhất của cuộc sống. Thế giới là thiên hình vạn trạng và vì thế, sự khác nhau trong quan điểm của mỗi người khi cùng nhìn về một sự vật là hoàn toàn có thể xảy ra. Tuy nhiên, thái độ quá khích (sủng bái quá khích hoặc xem thường quá khích) về bất kỳ một điều gì bao giờ cũng xuất phát từ chỗ nhận thức chưa đầy đủ về sự vật hay hiện tượng đó. Do vậy, để không rơi vào cực đoan, hiểu biết một cách khoa học là biện pháp tốt nhất mà con người có thể dùng để xử sự cho các tình huống của cuộc sống. Chủng ta biết đến tiển từ khi còn rất nhỏ. Mọi đứa bé đểu nhanh chóng hiểu rằng những những tờ giấy in đẹp và những mảnh kim loại sáng mà bố mẹ thỉnh thoảng cho, có thể dùng để đổi lấy kẹo, bánh, thức ăn hay bút mực. Khi chúng ta lớn, tiền trở nên gần gũi hơn vì nó cần để đóng học phi, mua sấm những tiện nghi và nhất là vì nó là khoản mà chúng ta phải tốn thởi gian làm lụng vất vả để có. Người ta bất đầu coi trọng tiền bởi vì lý do đơn giản đầu tiên là: tiến không dễ dàng có như không khí, nước hoặc cỏ cây. Mọi thứ dể dàng có đều it được người ta quan tâm hoặc coi trọng như không khí chung quanh ta chẳng hạn. Ngược lại, những thứ khó kiếm hơn, hay phải trả nhiều giá cao hơn bằng sức lao động, thời gian, sự cực nhọc thể xác, tâm tri để có thường được coi trọng hơn. Những cái càng phải đánh đổi nhiều thứ mới có càng được người ta quý. Lý do thứ hai là vì tiền cỏ thể trao đổi nhiều vật trong cuộc sống. Từ những vật dùng cẩn cho sự tồn tại, sinh hoạt cho đến những phương tiện giúp cho con người phát triển cao hơn. Xã hội càng đi lên tiển càng trở nên đa dạng hơn về loại hình. Và do vậy những nhận thức khác nhau về tiền bắt đầu phát sinh. Triết gia cố Hy Lạp là Aristote (384-322 trước Công nguyên) đã từng nỏi: “mọi thử đều có thể được lượng hóa thông qua tiền. Tiền làm trao đổi giữa hàng hóa và dịch vụ dễ dàng, làm cho xã hội hoạt động dễ dàng”. Đến giai đoạn trung cổ của lịch sử châu Âu (thế kỷ V đến thế kỷ XV sau Công nguyên), không ít quôc gia đã xem tiền như là của cải, là mục đích của cuộc sống. Với tiển trong giai đoan này người ta có thể mua cả một lănh thổ, thuê quân đội. Tiền bắt đầu được xem như biểu tượng của quyền lực, là mục đích của mọi hoạt động xã hội. Những nhận thức ấy đã kéo dài dai dẳng cho đến thể kỷ XVIII. Tiền lúc ấy làm bằng vàng hay bạc. Và tiền được quý vì vàng hay bạc là kim loại quý, khỏ tìm, là của cải. Thương mại ngày cảng bành trướng từ phạm vi một nước cho đến toàn cầu làm xuất hiện hoạt động trao đổi tiền tệ giữa các nước với nhau. Những đồng tiền bằng vàng được đem ra lượng giá với những đơn vị tiền bằng kim loại khác, bằng đá, gỗ, vải hay giấy Quá trình đó đã giúp con người bắt đầu có những quan niệm khác về vai trò của tiển. Bên cạnh đó, bệnh sùng bái tiền và tích lũy quý kim của một số nền kinh tế trọng thương Châu Âu thế kỷ XVI-XVII và XVIII đã đưa đến nhiều hệ quả xấu trong sản xuất. lưu thông, Và điểu này thúc đẩy thêm sự cần thiểt phải xác định lại nhận thức về tiền. Francisco Quesnay đã khởi xướng ở châu Âu quan niệm rằng tiền chỉ là phương tiện trung gian trong trao đổi. Sau tư tuởng cùn Quesnay, trong các tác phẫm được tái bản những năm 1950. David Hume1 tiếp tục nỏi rằng: “Tiền, nói một cách chính xác không là mục tiêu 1 David Hume - “Of Money”, in David Hume’s writings on Economics” - Madison: University of Winconsin Press - 1995 8
  10. Phần I - Tiền tệ, chức năng và vai trò của thương mại nhưng nó là phương tiện để mọi người trao đổi hàng hỏa lẫn nhau. Tiền không là chiếc bánh của cỗ xe thương mại nhưng nỏ là nhiên liệu để khởi động chíếc xe ấy một cách dễ dàng và êm ái. Khoa học kinh tế ngày càng phát triển, mọi phạm trù kinh tế đều được Hệ thống hóa và xác định lại. Cho đến thế kỷ XX, chức năng và vai trò của tiền cùng với câu hỏi tiền là gì, đã được lý giải tương đối ổn thỏa và được đa số công nhận. Trong khi chờ sự phát triển cao hơn của khoa học để bổ sung những nhận định mới vể tiến, những phần sau đây thuyết minh cách hiểu hiện nay về nguyên nhân và lịch sử ra đời của tiền, cùng chức năng và vai trò của nó ■ 9
  11. Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh Chương 1 - SỰ RA ĐỜI CỦA TIỄN TỆ 1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ Tiền tệ, để có được những nhận thức và tính hệ thống như ngày hôm nay, đã từng trải qua một lịch sử hoàn thiện rất lâu dài. Chinh sự tiến triển không ngửng của hoạt động kinh tế dưới các hình thức khác nhau của sản xuất và trao đổi đã thúc đẩy sự ra đới và phát triển của hệ thống tiến tệ. Đến lượt khi tiền tệ ra đời, nó ảnh hưởng ngược lại hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra một mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ cấu thành nên các biến chuyển khác nhau trong đời sống kình tể. Từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, vai trò và chức nãng của tiền không ngừng trở nên da dạng. Hoạt động kính tế́ bắt đầu trên thể giới này từ khi có con người. Ý thức cơ bản đầu tiên của mọi sinh vật là ý thức về sự sống và cái chết. Một cách rất bản năng, con người thời cổ hiểu rằng, để tồn tại, người ta phải hoạt động để kiếm cái ăn, cái uống. Dù sống đơn độc hay sống từng bầy, đàn, điều trước tiên ngưởi ta phải làm là tránh sự đe dọa của cái chết. Trong các đe dọa bị cái chết tước đoạt như đói khát, kẻ thù, thú dữ, tật bệnh, thiên tai , thì đói và khát là loại đe dọa thường xuyên nhất. Vả để thoát khỏi sự đe dọa này người ta phải làm việc. Ngày nay chúng ta gọi nhửng công việc hoặc những hoạt động nhằm tạo ra nhu cẩu tối thiểu cho cuộc sống, cho sinh hoạt và phát triển là hoạt động kinh tế. Vào thuở bình sinh của nhân loại, hoạt động kinh tế diễn ra trong từng cả nhân hoặc từng nhóm nhó của gia đình, ở đó sản phẩm được dùng chung và số thừa được cất giữ. Mỗi người, hoặc mỗi nhóm tự tạo ra mọi thử mà mình cẩn. Sản phẩm thừa hoặc được dự trữ hoặc đem cho. Hầu như không có trao đổi. Đây là chế độ tự cung tự cấp kiểu cá nhân hoặc gia đình, khi con người còn sống trong hang, chưa có chữ viết và thậm chí chưa có ngôn ngữ. Chính sự phình to của dân số đã đẻ ra nhu cầu sống cộng đồng. Với dân số ngày càng đông và kiếm ăn trở nên khó khăn hơn, người ta bắt đầu ý thức rằng ngoài sự chết do đói và khát mang đến, kẻ thù và những thiên tai cũng là những mối đe dọa không kém nguy hiểm. Để thoát khỏi sự đe dọa này, sống chung với nhau là điều tốt vì nhiều người đoàn kết nhau bao giờ cũng bảo vệ mình và mọi người tốt hơn trường hợp mỗi người sống một cách riêng rẽ. Cộng đồng ra đời trên nền tảng đó và bắt đầu phát triển. Cuộc sống mới với những quan hệ khác, sinh hoạt khác ngoài thói quen cá nhân, làm xuất hiện các loại nhu cầu mới: thống nhất về tiếng nói, chữ viết. Đồng thời quan hệ lẫn nhau trong cộng đồng đã tạo ra sự thông cảm, giảm bớt nghi kỵ, thù hằn và thói quen cô lập sinh hoạt. Ăn chung, làm chung dẫn đến việc người ta bắt đầu dùng của dư để cho những người cùng sống vay, hoặc dùng nó để trao đổi cái khác mà họ không có. Hoạt động trao đổi bắt đầu, chấm dứt cuộc sống tự cung tự cấp cá nhân. Vào thời gian thứ nhất, trao đổi bó hẹp trong khuôn khổ cộng đồng và nhỏ bé, chủ yếu trên các sản phẩm thừa và không hề có những cá nhân hay nhóm chuyên làm công việc này. Sự bành trướng của cộng đồng thành xã hội là động lực chính chuyển hóa quá trình trao đổi (mà David Hume gọi là trao đổi thiện chí) này thành một loại hình thương mại. Khi cộng đồng còn nhỏ, người ta chung sống với nhau dựa vào nhu cầu bảo vệ, niềm tin và sự kính trọng. Trong cộng đồng, người lớn tuổi nhất đương nhiên trở thành lãnh đạo vì kinh nghiệm sống, hiểu biết thiên nhiên và con cháu đông đảo của ông tạo nên. Khi cộng đồng ngày càng bành trướng, mối dây huyết thống và niềm tin lẫn nhau không còn đủ sức kiềm tỏa con người biết kính trọng và tôn phục người khác, do có quá nhiều nguồn gốc người và thành phần người khác nhau. Nhu cầu cấp bách để cộng dồng được tồn tại là phải có những ràng bucộc nhất định để các cá nhân không được xâm hại đến quyền lợi người khác, không được làm điều gì xấu cho cá nhân khác và cộng đồng, không được làm rạn nứt niềm tin và sự đoàn kết của cộng đồng. Các ước lệ bắt đầu phát sinh thế dần chỗ của niềm tin, sự tự giác và đạo đức cá nhân. Cộng đồng càng lớn, các ước lệ càng được chi tiết hóa và cụ thể hóa thành thưởng và phạt. Đồng thời nhu cầu có người lãnh đạo thống nhất để duy trì các ước lệ cũng được biểu hiện. Khi vai trò lãnh đạo bắt đầu có, để phục vụ cho công việc chung, lãnh đạo cần có người giúp việc và phương tiện. Pháp luật và các thiết chế xã hội khác bắt đầu phát sinh từ đó. 10
  12. Chương 1 - Sự ra đời của tiền tệ Xã hội càng phát triển, guồng máy tổ chức của nó càng trở nên cụ thể và phức tạp. Để bảo vệ xã hội, cần có những người chuyên làm công việc của một binh sĩ. Để duy trì kỷ cương, ước lệ, cũng cần có những người chuyên làm công việc giữ gìn trật tự cộng đồng. Sự phân công lao động trở thành điều tất nhiên. Con người, trong sự so sánh tự phát với cá nhân khác trong cộng đồng, dần dần tự ý thức rằng mình có thể sản xuất, có thể làm được vật phẩm này, điều này tốt hơn người khác. Đồng thời, ở một số vật phẩm khác, điều khác nhiều cá nhân còn lại tạo ra tốt hơn mình. Nhận thức ấy thúc đẩy một cách tự phát mọi người khuynh hướng di chuyển về sản xuất những loại vật phẩm mà mình có năng lực nhất so với cộng đồng. Nhu cầu trao đổi ngày càng lớn khi quá trình chuyên môn trở nên chi tiết hơn. Xã hội có những người chuyên về trồng lúa. Một số người khác chuyên về săn bắn. Một số khác lo bảo vệ cộng đồng và một vài nhóm chuyên về dệt vải. Vì mỗi người không thể tự tồn tại được với duy nhất loại sản phẩm do mình làm ra, mà cần phải có một số sản phẩm khác do các cá nhân còn lại tạo thành, mọi người phải trao đổi sản phẩm cho nhau để cùng tồn tại một cách đầy đủ hơn và tốt hơn. Quá trình trao đổi trở nên tinh vi dần với việc bắt đầu hình thành giai cấp trong xã hội. Đã có sự xuất hiện của một số cá nhân trong cộng đồng chuyên đi làm công việc trao đổi sản phẩm của người này cho người khác, mà ngày nay chúng ta gọi là buôn bán. Giai đoạn này kéo dài khoảng 2000 năm trước Công nguyên, trước cuộc chiến thành Troie. Cần nói rằng, mức độ tiến hóa nói trên chỉ mới xảy ra ở những vùng ven Địa Trung Hải của châu Âu hoặc nằm dọc theo các con sông lớn trong các cộng đồng có tổ chức cao. Ở một số vùng khác, tổ chức xã hội chưa phát triển, chưa có phân công lao động và chuyên môn hóa, con người hầu như vẫn tồn tại theo kiểu tự cung tự cấp là chính và trao đổi nếu có, cũng chỉ là loại trao đổi thiện chí theo cách nói của David Hume. Trong những cộng đồng phát triển trước nói trên, buôn bán và sản xuất được giải quyết trực tiếp qua hình thức lấy hàng hóa trao đổi hàng hóa hay “Barter”. Mấu chốt cơ bản để hoạt động Hàng đổi hàng hay Barter được tiến hành, là phải có sự trùng lắp nhau về nhu cầu giữa hai tác nhâu hay hai người muốn trao đổi (Double Coincidence of Wants). Nếu cá nhân A có vải thừa và muốn dùng hàng hóa ấy trao đổi để lấy lúa gạo, ông A phải tìm cho được người có lúa gạo thừa và quan trọng là người đó phải có ý muốn dùng lúa gạo để đổi lấy vải. Nếu người B này có lúa gạo thừa nhưng không muốn đổi lấy vải mà chỉ muốn đổi lúa lấy bông, cuộc trao đỏi sẽ bất thành. Người A hoặc phải chờ cho đến khi ông B trở nên cần vải, hoặc ông ta phải đi tìm một đối tác khác thỏa mãn 2 điều kiện để cuộc trao đổi có thể tiến hành đó là (1) đối tác mới phải có lúa thừa, và (2) đối tác này sẵn sàng dùng lúa để đổi lấy vải của ông A. Trao đổi trong công thức như thế tốn rất nhiều chi phí (exchange cost) như chi phí thời gian, chi phí đợi chờ và chi phí tìm kiếm. Và do vậy, trong nền kinh tế Barter, thương mại rất kém phát triển. Trao đổi diễn ra khó khăn vì rất hiếm khi ngẫu nhiên đến với các cá nhân, để giúp ông ta có thể dễ dàng tìm được ngay một ngưòi trùng lắp về nhu cầu, để tiến hành nhanh chóng ý muốn trao đổi khi cần. Do vậy, rất nhiều người trong cộng đồng vẫn tiếp tục cuộc sống tự cung tự cấp cho nhu cầu của họ. Hoạt động kinh tế và sản xuất bị hạn chế rất nhiều vì loại hình trao đổi này, tuy nó là một bước tiến so với cuộc sống tự cung tự cấp của thời trước đây. Thử hình dung một thầy giáo sống trong một nền kinh tế “Barter” muốn trao đổi lấy một bữa ăn. Cái hàng hóa mà người thầy giáo này có là những tri thức về những phạm trù nhất định, và kiến thức sư phạm có thể giúp anh ta tạo ra một dịch vụ, đó là giảng dạy, chẳng hạn triết học. Để có bữa ăn, anh ta cần tìm một người bán cơm hoặc thực phẩm nào đó, giảng cho họ một buổi về triết học để đổi lấy cái mà anh ta cần. Nhưng giả như bữa đó người bán thực phẩm không muốn nghe về triết học, anh ta chỉ muốn trao đổi thực phẩm của mình để lấy vải. Nếu khi nhà triết học tìm đến, người có vải lại cũng không muốn nghe giảng triết học, ông ta chỉ muốn dùng vải đã có để đổi lấy một con cừu. Trong trường hợp may mắn đến với thầy giáo, ông ta có thể gặp một trong số rất nhiều người chăn cừu thích nghe về triết học, hoặc con ông ta muốn hiểu biết về môn học này. Thầy giáo sẽ giảng được bài để đổi lấy cừu. Dùng cừu để đổi lấy vải, và mang vải đến cho người bán thực phẩm để trao đổi bữa ăn. 11
  13. Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh Những hoạt động như thế chiếm hết cả thì giờ của người sản xuất. Mọi người lãng phí rất nhiều nguồn lực để kiếm tác nhân trao đổi hoặc phải sản xuất ra bất cứ thứ gì mà mình cần. Khi dân số phình ra và tổ chức xã hội ngày càng lớn dần với nhiều hàng hóa hơn, chính sự trở ngại của trao đổi Barter làm xuất hiện nhu cầu thúc bách phải có những phương cách trao đổi thuận tiện hơn. Một cách rất tự phát, nhiều nhóm người bắt đầu sử dụng những vật thể trung gian trong trao đổi để hoạt động này được tiến hành thuận lợi. Khi cá nhân A muốn dùng lúa để trao đổi lấy vải, giá như vào thời điểm ấy anh ta không thể tìm ra một người có vải cần trao đổi lúa để tiến hành. Anh A có thể trao đổi lúa mình có cho một người cần lúa bất kỳ nào đó. Người cần lúa sẽ trao cho A một vật thể trung gian. Một thời gian ngắn sau đó, anh A có thể quay trở lại, lúc ấy người nhận lúa của A có thể đã tìm ra vải cho A. Cả hai lại trao đổi cho nhau, A lấy vải và người ấy nhận lại vật thể trung gian hay vật “gán nợ”. Vật “gán nợ” này trở thành phương tiện trung gian trong trao đổi của rất nhiều cộng đồng từ những năm 2000 trước Công nguyên đến cuộc chiến thành Troie. Trao đổi qua vật thể trung gian lại càng đặc biệt thuận lợi nếu ông A sau khi dùng lúa đổi lấy nó, có thể tìm được một người có vải sẵn sàng chấp nhận dùng vải để đổi lấy vật trung gian. Nhu cầu tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn cho trao đổi, một cách tự phát, tiếp tục thúc đẩy con người tìm cho được những vật thể trung gian cùng được nhiều người thừa nhận. Những vật thể ấy, đương nhiên phải quen thuộc với tất cả mọi người, và phải quý giá trong cách nhận thức của đa số. Vật thể trung gian ngày càng được sử dụng rộng rãi. Các thành viên của xã hội thay vì phải chạy loanh quanh kiếm đối tác trao đổi, hoặc phải tự cung tự cấp như trước, ông ta hoặc bà ta chỉ cần dùng sản phẩm thừa, đổi ngay lấy “vật thể trung gian”, rồi dùng vật thể trung gian này trao đổi ngay cái mà mình cần ở bất kỳ một đối tác khác nào có sản phẩm ấy. Đối tác có sản phẩm chấp nhận “vật thể trung gian” này một cách không băn khoăn, vì ông ta hoàn toàn cũng có thể dùng nó để trao đổi bất kỳ một thứ khác mà gia đình ông đang cần. “Vật thể trung gian” do đó đã làm cho trao đổi và tiếp đó là “buôn bán” giữa các cá nhân trong cộng đồng diễn ra rất thuận lợi. Ngày nay, người ta gọi tên những “vật thể trung gian” như thế là “Tiền” 1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ Đầu tiên tiền tệ được mọi người chấp nhận thường là những dạng vật chất quen thuộc và có ích với tất cả mọi người, hoặc được mọi người cùng coi trọng. Con lừa đã từng là vật nuôi tiện lợi trong rất nhiều nhóm người ở các vùng Bắc nước Anh thời cổ đại. Cho nên nó đã là vật trung gian trao đổi trong những khoảng thời gian khá dài ở Bắc Anh từ trước Công nguyên. Điều này giải thích vì sao danh từ tiền (money) và con lừa (donkey) có tiếp vĩ ngữ giống nhau trong tiếng Anh. Và thành ngữ “Donkey’s Years” có nghĩa là “vào những năm rất xa xưa” chứ không có nghĩa là “những năm con lừa”. Ở Ấn Độ thời cổ đại, bò là loại vật nuoi rất được tôn trọng vì quan niệm tôn giáo. Người ta không ăn thịt bò, và bò được xem như là một biểu tượng của của cải. Vì lý do được mọi người cùng tôn trọng và chấp nhận như của cải, bò đã từng được sử dụng như một vật thể trung gian trao đổi của nhân dân Ấn thời xưa. Và danh từ tiền trong ngôn ngữ Ấn là “rupee” có âm gần giống với danh từ đàn gia súc là “rupa”, xuất phát từ nguyên nhân nói trên. Một số vùng miền núi ở Việt Nam vẫn tiếp tục coi trâu, bò là của cải và đã dùng chúng làm vật thẻ để qua đó trao đổi lấy các vật thể khác cho đến tận thế lỷ XIX. Những cư dân quần đảo VAP ở Micronesia đã từng sử dụng những đồng tiền bằng đá cho đến tận thế kỷ XX. Những đồng tiền bằng đá như hình 1, giống những bánh xe, ở giữa có đục lỗ cho việc vận chuyển được dễ dàng. Có những đơn vị tiền đường kính cao gấp đôi chiều cao con người. Còn những đơn vị cao bằng chiều cao của người là chuyện thường thấy. Năm 1944, Willard Price đã viết rằng một đồng tiền bằng đá có chiều rộng 5 bộ của Anh có thể đổi được 4000 quả dừa1. Những đồng tiền lớn như vậy được trưng bày ở mỗi làng như tài sản, và khi cần, nó có thể được dùng để trao đổi hàng hóa với các làng khác. Mỗi khi đồng tiền chuyển chủ sở 1 Willard Price - Japan’s Island, of Mistery - New York: John Day, 1944, P.11 12
  14. Chương 1 - Sự ra đời của tiền tệ hữu, những thân cây lớn được cho xuyên vào các lỗ tiền. Rồi hàng trăm thanh niên vừa khiêng vừa lôi đồng tiền đến cho chủ mới. Những đồng tiền đá nhỏ hơn với chiều rộng 1,2 hoặc 3 bộ được dùng làm phương tiện trao đổi thực phẩm, vật nuôi, trái cây cho đến nhà cửa và các vật dụng khác trong sinh hoạt gia đình. Tiền đá cũng là sự biểu hiện của tài sản. Nó được trưng bày ngay ở mọi nhà, và số lượng tiền đá là thước đo sự giàu nghèo trong cộng đồng dân cư YAP. Khó ai có thể ăn trộm loại tài sản này vì sức nặng của nó. Các thế hệ nối tiếp nhau đi qua trong cuộc sống của quần đảo này, nhưng những đồng tiền đá vẫn còn mãi với thời gian. Những loại tiền nói trên là những loại phương tiện trao đổi. Hầu hết, nó là hàng hóa. Đây là thời kỳ của cái gọi là “tiền tệ làm bằng hàng hóa" hay hàng hóa được sử dụng như tiền. Chúng ta gọi “thời kỳ” để dễ phân biệt với những giai đoạn khác trong lịch sử tiền tệ, chứ thực ra các loại tiền hàng hóa này có mặt trong đời sống xã hội từ 2000 năm trước Công nguyên một cách tự phát, ở hầu như các vùng khác nhau trên thế giới một cách khá đồng loạt. Tuy nhiên, theo thời gian, nhiều quốc gia phát triển trước bắt đầu chuyển sang các hình thái tiền tệ khác, trong khi rất nhiều vùng còn lại vẫn lưu dụng loại tiền hàng hóa này rải rác cho đến thế kỷ XX. Bảng 1.1 cho chúng ta cái nhìn khái quát về một số loại tiền bằng hàng hóa trong hơn 4000 năm nay. Một ít vẫn rải rác tồn tại đến bây giờ. Khi con người đã có “tiền hàng hóa" làm trung gian để trao đổi trong sản xuất và buôn bán, thương mại phát triển mạnh và hoạt động kinh tế bành trướng rất mau chóng. Đến lượt nó, khi thương mại đã lớn mạnh, khối lượng trao đổi ngày một nhiều hơn, của cải mà con người làm ra càng đa dạng và khổng lồ, sự tiện lợi trong trao đổi bắt đầu đòi hỏi tiền phải có những tính chất nhất định. Một cách tự phát, các nhà sản xuất và kinh doanh bắt đầu nghĩ về những tiêu chuẩn tiện lợi mà tiền - với tư cách là vật trung gian cho trao đổi - nên có. Những tiêu chuẩn tiện lợi tối thiểu đó phải là: 1. Loại tiền ấy phải có giá trị thực tế. 2. Nó phải dễ sử dụng trong tự nhiên. 3. Dễ vận chuyển và không quá cồng kềnh. 4. Có thể chia nhỏ đến bao nhiêu cũng được để phục vụ cho những giao dịch lặt vặt. 5. Tồn tại lâu dài và không hư hại. Đương nhiên, với những tiêu chuẩn như vậy, rất nhiều loại hàng hóa trước đây là tiền bây giờ trở nên không thích hợp. Tiền bằng đá thì không dễ dàng vận chuyển và không dễ cia nhỏ, không dễ sử dụng và nhất là không có nhiều giá trị thực tế. Hươu, bò hay lừa , có thể có giá trị thực tế, nhưng khó vận chuyển, không thể chia nhỏ bao nhiêu tùy ý và nhất là không thể lưu trữ như tài sản đến bao nhiêu năm cũng được. Răng cá voi, lông chim như bảng 1.1 trình bày càng thiếu nhiều tính chất hơn Do vậy, con người buộc phải nghĩ và tìm ra những dạng vật chất thỏa mãn được 5 tiêu chuẩn trên để tạo thành tiền. Kim loại bắt đầu được thử nghiệm, được coi trọng, và dần dần thay thế các loại hàng hóa khác làm tiền. Khoảng 2000 năm trước Công nguyên, nhiều cộng đồng ven Địa Trung Hải đã sử dụng kim loại làm phương tiện trao đổi. Trong các trường ca Iliade và Odyssé của Homere, Vương quốc của vua Priam đã được tả lại là có rất nhiều tiền vàng và đồ trang sức bằng vàng. Sau sự sụp đổ của nền văn mình Troie này, những chứng tích còn lại cho thấy rằng tiền vàng và bạc tiếp tục được lưu hành ở một số nơi thuộc Bán đảo tiểu Á, Hy Lạp và bán đảo Ytalia. Đến thế kỷ thứ VII trước Công nguyên (hơn 800 năm sau Nền văn mình Troie), tiền kim loại bắt đầu được sử dụng rộng rãi trở lại ở Lydia, một thành phố của Hy Lạp thuộc vùng Anatolia. Những đồng tiền kim loại của Lydia được làm bằng hợp kim (electrum) giữa 2 kim loại chính là vàng và bạc. Lúc ấy tiền này do các nhà thương buôn đúc ra để trao đổi với nhau. Tiền Lydia có hình thức đơn giản. Một mặt có hình chim đại bàng và những ký hiệu bằng số, mặt còn lại là những nét khắc hình học mà đối với thời bấy giờ là tượng trưng cho sự thông thái và đặc biệt. Nghệ thuật làm tiền tiếp tục được người Hy Lạp và La mã hoàn thiện trong những thế kỷ tiếp theo đó. Vì nghề hàng hải là nghiệp chính và nó tượng trưng cho buôn bán thời bấy giờ, các thương nhân Hy Lạp nhái theo bánh lái tròn của tàu buôn để tìm ra hình thái cho tiền 13
  15. Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh kim loại. Do vậy, đầu tiên tiền có tên gọi là “steer” ở Hy Lạp vì Steer nghĩa tiếng Việt là bánh lái tàu buôn. Sau khi đế chế Alexandre Macedoine sụp đổ, văn minh Hy Lạp được mang về La Mã vào đầu Công nguyên. Từ “steer” diễn giải lại theo ngôn ngữ La Tinh trở thành từ Pecus. Từ đó cho đến thế kỷ II sau Công nguyên, từ Pecus được nhân dân La Mã chấp nhận dần dần như là một từ chỉ về vật thể có khải niệm là “tiền”. Thuật ngữ Pecus (hay tiền) tồn tại mãi đến ngày nay. Vào thế kỷ XVII, nó bước vào tự điển với tên gọi đầy đủ là “Pecuniary”, dịch nghĩa sang tiếng Việt từ này bao hàm tất cả những khái niệm liên quan đến “tiền”. Trong một chiều dài 4000 năm phát triển, nhiều kim loại khác nhau đã được sử dụng làm tiền cho mãi đến hiện nay. Vàng, bạc, đồng, chì, kẽm. thiếc, nhôm , đã từng được sử dụng làm tiền. Việt Nam trong hơn 2000 năm từng sử dụng kim loại “đồng” làm tiền. Do thói quen ấy, đơn vị tiền tệ Việt Nam vẫn được gọi là Việt Nam Đồng (VND) tuy hiện nay nó bằng giấy và không hề có chút đồng nào. Bảng 1.1. Một số tiền tệ bằng hàng hóa trên thế giới Các loại hình khác nhau của tiền tệ Nơi đã sử dụng bằng hàng hóa Răng cá voi Fiji Gỗ hương Hawaii Lưỡi câu cá Gilbert Islands Vỏ sò Marianas Lông chim cắt đỏ Đảo Santa Cruz (cho đến năm 1961) Lúa, gạo Phillipines Muối Rất nhiều nơi Hạt tiêu Quần đảo Sumatra (Indonesia) Đường Barbados Trà Nhiều vùng ở châu Á Nô lệ Lục địa châu Phi-Nigeria- và Ireland Hươu Một số vùng ở nước Nga Đồng Ai Cập, Việt Nam, Trung Quốc Vải lụa Trung Quốc Bơ Norway Da Pháp và Ý Rượu vang Úc Con bò Ấn Độ Kinh tế và các vấn đề xã hội khác càng phát triển, các câu hỏi và yêu cầu càng được đặt ra cao hơn và người ta bắt đầu tìm kiếm những phương tiện khác tốt hơn, tiện lợi hơn để dùng làm tiền. Ba nhược điểm nổi bật nhất khiến cho ngày nay trên thế giới chỉ còn một số ít quốc gia sử dụng tiền kim loại trong lưu thông, đó là: (1) tiền kim loại với số lượng nhỏ có thể được bọc trong người hoặc cầm tay một cách dễ dàng. Nhưng với số lượng lớn cho những giao dịch lớn hơn, giữa các vùng xa hơn như thanh toán quốc tế chẳng hạn, việc chuyển hàng tấn tiền kim loại đi là vấn đề không dễ dàng và rất tốn kém. (2) Những lúc giá cả tăng nhanh, tiền cũng mất giá nhanh. Đến một lúc nào đó giá trị được quy định trên bản thân đồng tiền kim loại trở thành nhỏ hơn giá trị của lượng kim loại tạo ra đơn vị tiền. Các nhà đầu cơ sẽ thu gom tiền kim loại về, nấu chảy ra thành khối và bán nó như bán một loại hàng hóa để kiếm lời. (3) Chi phí phải bỏ ra (vì tốn kém kim loại) để tạo ra tiền, càng ngày càng trở nên lớn vì sự khan hiếm kim loại để sử dụng vào các mục đích khác. Trong lúc xã hội ngày càng trở nên thiếu tài nguyên vì thế giới trở nên đông đúc hơn, và vì mọi nguồn lực không phải là vô hạn, sự tiết kiệm các dạng nguyên liệu như kim loại là vấn đề trở nên cần thiết. Tất cả là lý do giúp tiền giấy ra đời và phát triển nhanh chóng từ cuối những năm 1600 cho đến tận bây giờ. ■ 14
  16. Chương 2 - Hệ thống tiền tệ Chương 2 - HỆ THỐNG TIỀN TỆ 2.1. CÁC LOẠI TIỀN TỆ HIỆN NAY Tiền tệ làm bằng kim loại là loại tiền đã qua của quá khứ. Tuy vậy có rất nhiều quốc gia tiếp tục sử dụng chúng trong những giao dịch nhỏ và trả tiền xe buýt, gọi điện thoại công cộng như trường hợp tiền kim loại ở Hoa Kỳ và Thái Lan Từ khi tiền giấy ra đời, nó dần dần chiếm chỗ của tiền kim loại vì sự tiện lợi cũng như tiết kiệm chi phí trong việc tạo ra tiền. Tất cả các quốc gia trên thế giới ngày nay đều có tiền giấy, vì lý do đơn giản là tiền giấy có thể được làm ra những số lượng rất lớn với chỉ phí rất hạ hơn bất cứ loại nguyên liệu hoặc hàng hóa để tạo ra tiền nào khác. Giấy, mực và công in ấn không phải là vô hạn. Tuy nhiên, chi phí để có nó là thấp nhất so với bất kỳ loại hàng hóa nào khác có thể dùng làm tiền. Do vậy, khi nền kinh tế càng ngày càng bành trướng và nhu cầu về số lượng tiền tăng lên không ngừng, thì thực sự chỉ có giấy là loại tiền tiết kiệm nhất các nguồn lực khan hiếm trong xã hội. Tiền giấy là một bộ phận của tiền tệ ngày nay. Người ta gọi tiền giấy là tiền quy ước và để hiểu một cách dễ dàng về khái niệm này, chúng ta cần quay lại một ít khía cạnh liên quan đến loại tiền tệ bằng hàng hóa đã phân tích ở trên. 2.1.1. Tiền có giá trị thực Tiền có giá trị thực là những loại tiền được làm ra từ các dạng vật chất mà bản thân nó đã có giá trị sử dụng sẵn. Tiền tệ bằng hàng hóa ngày xưa, đại đa số thuộc dạng này. Thí dụ như lừa, bò, vải hay vàng, bạc, đồng Bản thân các dạng vật chất vừa kể đều có những giá trị nhất định vốn có của nó. Vải có thể dùng để may mặc, lừa hay bò có thể dùng làm sức kéo hoặc cho sữa, cho thịt. Vàng, bạc hay đồng là những kim loại quý vì nó đẹp và hiếm. Nhất là vào thời xưa, khi mà kỹ thuật khai thác và thăm dò còn hạn hẹp, những kim loại quý trên là đồ trang sức và là biểu tượng của sự giàu có, của cải và sang trọng. Khi tiền được làm từ những dạng vật chất có giá trị cụ thể như thế, nó được mọi người thời xưa tín nhiệm nhanh chóng. Thuở ấy, khi mà suy luận và nhận thức về tiền chưa được hoàn chỉnh. các nhà sản xuất chỉ có thể trao hàng hóa của họ, để đổi lấy một vật trung gian với giá trị ít nhất phải tương đương giá trị hàng hóa của họ. Đem l00kg lúa hay 100m vài chẳng hạn trao đổi lấy về một vật trung gian như con cừu, lừa hay bò là chuyện có thể được chấp nhận, bởi vì điều hiển nhiên là giá trị của cái gọi là tiền (bò, lừa hay cừu) gần như tương đương với những gì họ đã trao đi để nhận nó về. Lúc đó, tiền tồn tại bởi vì nó có giá trị thực, và nhân dân chấp nhận nó như là vật trung gian trong trao đổi, cũng chỉ vì bên cạnh sự tiện lợi cho trao đổi, điều quan trọng là nó có những giá trị cụ thể. Thói quen nhìn nhận về tiền như thế tồn tại dai dẳng qua cả giai đoạn tiền kim loại. Một đơn vị tiền nặng 1 gram đồng đổi được ít hàng hóa hơn một đơn vị tiền cũng nặng một gram nhưng bằng vàng vì vàng quý hơn, đẹp hơn và khó kiếm hơn. Trong cùng một loại tiền, một đơn vị tiền nặng 1 gram vàng, đương nhiên, mua được ít hàng hóa hơn những đơn vị tiền nặng 2 gram hoạc 3 gram vàng, và những đồng tiền vàng nặng 1kg vàng thời Trung cổ ở châu Âu có thể mua được số lượng hàng hóa bằng 1.000 lần những đơn vị tiền chỉ nặng 1 gram vàng, chỉ vì lý do đơn giản là 1kg vàng thì có giá trị bằng 1.000 lần 1 gram vàng. Người ta tin và chấp nhận tiền vì đơn giản là tiền có giá trị. Nhận thức và lối chấp nhận ấy có từ khi tiền ra đời như phương tiện trung gian trao đổi mà chúng ta đã nghiên cứu ở chương 1, và kéo dài cho đến tận những năm đầu thể kỷ XX. Vào giai đoạn đầu của lịch sử tiến giấy (những năm cuối 1600), nhân dân không quen được với cách nghĩ rằng những tờ giấy giá trị rất thấp kia, những tờ giấy mà giá trị thực của nó không hơn bao nhiêu so với giấy tập viết mà họ có thể có vô số cho con họ ở nhà, lại có thể xem là tương đương với những đồng vàng quý giá, hay có thể trao đổi những loại hàng hóa cần thiết mà giá trị của nó gấp rất nhiều lần hơn giá trị của giấy. Nhân dân không tin tiền giấy 15
  17. Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh vì lý do dễ hiểu là giá trị bản thân của nó quá thấp. Quá thấp so với bất kỳ hàng hóa nào trong trao đổi. Để nhân dân chịu chấp nhận tiền giấy, các nhà phát hành tiền phải đưa ra một cam kết là mỗi đơn vị tiền giấy được quy định tương đương một lượng tiền vàng nhất định và bất kỳ khi nào, người cầm nó muốn đổi trở lại thành tiền vàng, ông ta hoặc bà ta cứ việc mang nó đến nơi phát hành để chuyển lại thành tiền vàng. Chế độ tiền giấy như thế gọi là chế độ tiền giấy có bảo chứng vàng hay "kim bản vị". Từ tiền có giá trị thực, nhân dân bắt đầu quen dần với tiền giấy có đảm bảo trên cơ sở vàng. Đó là giai đoạn bắt đầu của chế độ tiền quy ước. 2.1.2. Tiền quy ước Đặc điểm quan trọng nhất của tiền quy ước từ xưa đến nay, là giá trị thực trên bản thân nó từ nhỏ đến vô cùng nhỏ so với những hàng hóa, sản phẩm hoặc dịch vụ mà nó có thể trao đổi được. Một đơn vị tiền giấy như đồng 10 Franc Pháp thời Napoleon III có giá trị bản thân được cấu thành từ chất liệu giấy, định lượng giấy, mực và công in ấn để tạo ra nó. Giá trị ấy là rất nhỏ so với những hàng hóa như thực phẩm, quần áo mà tờ giấy này có thể mua được khi nó ra lưu thông. Điều đó có nghĩa là giá trị trao đổi của tờ giấy 10FF không phụ thuộc vào chính bản thân nó như những đồng tiền bằng bạc hoặc vàng thời cổ đại, mà giá trị của nó do được quy ước mà thành. Có 2 loại quy ước: quy ước dựa vào niềm tin và quy ước dựa vào luật pháp. Tiền giấy được quy ước dựa vào niềm tim của người cầm nó được gọi là tín tệ (token money). Tiền giấy được luật pháp quy ước thành giá trị được gọi là tiền luật định (hay Fiat money). 2.1.2.1. Tín tệ (token money) Tiền giấy do các ngân hàng tư nhân hoặc ngân hàng cổ phần phát ra từ thế kỷ XVII cho đến trước chiến tranh thế giới II là loại tiền này. Cơ sở chủ yếu để nó được lưu hành là niềm tin của người sử dụng nó. Niềm tin này dựa trên hai điều: thứ nhất, nhân dân thấy rằng có thể dùng nó để đổi ra thành tiền vàng bất cứ lúc nào mà họ muốn tại ngân hàng đã phát ra. Và do vậy, thay vì cất giữ những đồng tiền vàng, người ta có thể cất giữ những tờ giấy mà tính chất cũng không có gì khác. Thứ hai khi nhân dân đã bắt đầu chấp nhận nó, nó dễ dàng trở thành phương tiện trung gian trong sản xuất và mua bán như những đồng tiền vàng. Vào thời gian đầu, để đảm bảo cam kết với nhân dân, những người sử dụng tiền giấy, các ngân hàng và các tổ chức phát hành ra nó, chỉ tạo ra những lượng tiền giấy nhất định tương ứng với dự trữ vàng mà họ có được trong kho. Đây là giai đoạn của tiền giấy khả hoán (convertible paper money) nghĩa là tiền giấy có thể đổi ra thành vàng hay bạc vào bất cứ lúc nào. Tiền giấy khả hoán tồn tại từ thế kỷ XVII, được củng cố bởi học thuyết của David Ricardo, kéo dài cho đến tận những năm 30 của thế kỷ XX. Trong giai đoạn này, ở châu Âu cũng có những khoảng thời gian ngắn tín tệ khả hoán trở thành bất khả hoán, do nhà nước quy định vì thiếu vàng để đổi lại cho nhân dân như ở Pháp những năm 1840. Tuy nhiên, hiện tượng bất khả hoán này chỉ diễn ra tạm thời một mặt vì sự thiếu vàng cũng chỉ là hiện tượng nhất thời, mặt khác vì thực sự cho đến lúc đó, nhân dân châu Âu vẫn chưa quen với ý nghĩ rằng tiền giấy có thể được chấp nhận mà không có bảo đảm vàng. Ðến đầu thế kỷ XX, rất nhiều biến cố đã tác động đến sinh hoạt tiền tệ ở châu Âu, khiến cho tín tệ từ khả hoán trở thành bất khả hoán. Rải rác trong thế kỷ XIX, nhiều quốc gia đã thấy rằng kinh tế càng phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng trở nên lớn dần trong khi lượng vàng để bảo đảm cho việc phát hành tiền là hữu hạn. Nếu cứ cột chặt việc phát hành tiền giấy vào vàng hay các quý kim khác, sẽ có lúc nền kinh tế thiếu tiền để vận động. Năm 1853, Hoa Kỳ đã cho phát hành những tín tệ bằng kim loại với giá trị thực dần dần nhỏ hơn giá trị bề mặt của nó. Đây là một cách đối phó với tình trạng thiếu quý kim. Và tùy theo tình trạng dự trữ quý kim, các quốc gia có giai đoạn buộc phải chuyển sang tín tệ bất khả hoán, rồi lại trở lại chế độ khả hoán. Sự lệ thuộc cung ứng tiền vào quý kim bộc lộ nhận thức thời bấy giờ về việc ngại rằng sự phát hành tín tệ quá với mức giới hạn, không có sự ràng buộc vào 16
  18. Chương 2 - Hệ thống tiền tệ quý kim có thể đưa đến tình trạng siêu lạm phát, như ở Pháp và Hoa Kỳ trong cách mạng 1789 và chiến tranh giành độc lập 1776. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất hàng hóa đã làm cho những tín tệ có giá trị trao đổi ngày càng mạnh, ngay cả trong thời kỳ thiếu dự trữ vàng. Tình hình trên đã giúp các quốc gia dần dần nhận thức khác đi về việc có nên giữ chế độ tiền khả hoán tiếp tục hay không. Cuộc khủng hoảng kinh tế vào thập niên 30 của thể kỷ XX đã để lại hai kinh nghiệm lớn. Trong cơn hoảng loạn và thất vọng vì suy thoái, nhân dân đua nhau đem tín tệ đến để đổi ra vàng và điều đó đã nhanh chóng làm hết sạch dự trữ vàng. Tiền giấy không được chấp nhận, sản xuất hoàn toàn đình đốn và suy thoái đi đến chỗ càng nghiêm trọng hơn. Bên cạnh đó kinh nghiệm thứ hai đến từ nước Đức. Cuộc bại trận năm 1918 đã làm cho Đức cạn kiệt dự trữ vàng, và để bồi thường chiến tranh, nước này đã in ra hàng tỷ tỷ tiền Mark hoàn toàn không có bảo chứng vàng. Mức cung ứng tiền giấy đã tăng lên 16 lần trong tháng giêng năm 1923 và thậm chí còn cao hơn rất nhiều trong những tháng sau đó. Chính phủ Đức đã phải mua những máy in tiền có tốc độ nhanh hơn. Nhân dân không tin ở tiền nên tìm mọi cách mua hàng hóa thật nhanh, và điều này đẩy giá cả lên theo từng giờ. Hàng hóa khan hiếm, chỉ có tiền là thừa. Vào tháng 10 năm 1923, người ta phải bỏ ra 192 triệu Reichmark để mua một cốc nước giải khát mà hồi tháng giêng năm 1922 chỉ 1 Reichmark một cốc. Hệ thống tài chính sụp đổ cho đến những năm cuối thập niên 20. Bác sĩ Schatch đã vực dậy nền kinh tế nước Đức bằng việc phát hành đồng tiền mới (đồng Rentenmark) thay đổi đồng tiền cũ đã quá mất giá, và cưỡng bức nhân dân phải chấp nhận thông qua luật pháp. Cuối năm 1923, 1 đồng Rentenmark được dùng để đổi cho 1.000 tỷ đồng Reichmark. Bên cạnh đó, ông áp dụng chính sách tài trợ trước tài chính cho các xí nghiệp sản xuất, bao tiêu sản phẩm và phát hành trái phiếu lao động để giới hạn bớt việc phát hành tiền giấy. Đồng tiền mới bắt đầu có sức mua. Nhân dân dần dần tín nhiệm tiền mới. Thương mại phục hồi và nền kinh tế Đức gượng dậy nhanh chóng. Những kinh nghiệm trên đã giúp các nhà kinh tế học như John Maynard Keynes hệ thống lại những nhận thức về tiền. Người ta bắt đầu tin rằng tiền giấy có giá trị khi nó mua được nhiều hàng hóa. Nó kém giá trị đí khi nó chỉ có thể mua được từ ít đến rất ít hàng. Còn khi nền kinh tế đã thiếu hàng hóa như Đức trong những nàm 1922-1923, thì giá trị của tiền vẫn cứ tụt nhanh cho dù nó được bảo đảm bằng vàng. Tín tệ khả hoán hoàn toàn chấm dứt ở Châu Âu từ sau cuộc đại suy thoái (1929-1933) nhường chỗ cho một loại tiền quy ước bởi luật pháp dùng để lưu hành trong trao đổi và hoàn toàn không đổi ra vàng hay bạc được. Đó là tiền giấy pháp định hay Fiat money. 2.1.2.2. Tiền pháp định Khi pháp luật của quốc gia quy định rằng tờ giấy này do nhà nước phát hành ra là tương đương với một giá trị nhất định trong trao đổi, lúc đó, tờ giấy trở thành phương tiện trung gian cho mua bán với giá được quy định. Ở đây, chính pháp luật đã gán cho tờ giấy một giá trị khác với giá trị của chính bản thân nó. Tiền giấy được quy định bởi luật của nhà nước xa xưa nhất theo lịch sử có lẽ là vào thời Khan đại đế của Đế chế Nguyên - Mông ở Trung Quốc vào thế kỷ XI. Theo chuyện kể của Macro Polo, tiền giấy đã được Khan đại đế cho làm và ra lệnh lưu hành ở một số địa phương của Trung Quốc. Tuy nhiên, vào thuở ấy, tiền đồng, bạc và vàng vẫn chiếm đa số, và thực sự tiền giấy của triều đình Nguyên - Mông chỉ tồn tại khá hạn hẹp trong phạm vi Bắc Kinh và một số địa phương lớn với khoảng thời gian không dài. Tiền pháp định đầu tiên có ý nghĩa và hiệu lực thi hành một cách tuyệt đối trên toàn lãnh thổ như phương tiện trao đổi, và được luật quy định thành những giá trị rõ ràng, không khác với tính chất của tiền giấy hiện đại bao nhiêu, có lẽ được áp dụng đầu tiên trên thế giới là tại Việt Nam trong triều đại nhà Hồ. Trước năm 1400, nhân dân Đại Việt dưới các triều đại Lý - Trần (1010 - 1400) tin và sử dụng những đồng tiền được làm bằng đồng. Niềm tin dó hoàn toàn xuất phát từ việc đồng là một loại quý kim. Kim loại này thời đó rất hiếm. Kỹ thuật thăm dò lạc hậu và khai thác thô sơ đã làm cho đồng được sản xuất ra mỗi năm với số lượng rất nhỏ. Trong nhân dân, của cải được thể hiện bằng đồng. 17
  19. Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh Mâm đồng, thau đồng, gương đồng, đồ trang sức bằng đồng là những tài sản của mỗi gia đình. Nhân dân tin rằng tiền có giá trị. Tiền có thể mua được cái này, cái khác bởi vì đơn giản những xu, hào, quan là bằng đồng. Mà đồng thì rất có giá trị. Các triều đình lúc đó chưa đủ nhận thức về nguyên lý phát hành tiền, cho nên không dùng pháp luật để quy định giá trị, mà chỉ đơn thuần đúc ra những đơn vị đồng. Ðơn vị nào trọng lượng nhẹ thì giá trị thấp. Đơn vị nào trọng lượng lớn hơn thì giá trị lớn hơn, và cứ thế đúc ra tiền. Đã từng có những đơn vị tiền nặng cả kg đồng. Tiền lúc đó do triều đình tạo ra, nhưng cơ sở để nó lưu thông thực ra là giá trị của chính bản thân nó. Năm 1400, Hồ Quý Ly nắm chính quyền lập ra triều đại nhà Hồ. Năm 1402, vì cần phải thu vét kim loại để đúc súng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Minh, Hồ Quý Ly cho gom hết tiền đồng trong nhân dân về kho nhà nước. Để thay thế tiền đồng trong lưu hành, Hồ Quý Ly cho in tiền bằng giấy. Xuất phát từ sáng kiến rằng tiền chỉ là phương tiện để nhân dân trao đổi hàng hóa và sản xuất, vì thể tiền làm bằng gì cũng được, không nhất thiết phải là đồng. Ông cho cắt loại giấy tốt nhất thời đó ra thành những khổ khác nhau. Dùng bản khắc bằng gỗ tẩm mực để in lên những mặt giấy các ký hiệu để phân biệt các loại tiền với nhau. Các đơn vị ăn 10 đồng thì ông cho in hình rong biển. Những đơn vị giá trị 30 đồng ông cho in hình sóng nước. Những đơn vị 1 tiền thì in hình đám mây. Những đơn vị năm tiền thì in hình con phượng. Một quan thì vẽ con rồng. Làm giả tiền thì phải tội chém.1 Hồ Quý Ly cưỡng chế nhân dân phải lưu hành và chấp nhận tiền giấy. Ông dùng luật quy định rằng nếu ai không chấp nhận tiền giấy của triều đình trong thanh toán, vay mượn và mua bán sẽ bị khép tội và chém đầu. Mỗi người ai cũng chỉ có 1 cái đầu, nếu bị chém đi thì cũng hơi phiền, cho nên, nhân dân Đại Việt dần dần phải chấp nhận tiền giấy. Đây là tiền pháp định đầu tiên, có hiệu lực thi hành trên toàn lãnh thổ của một quốc gia độc lập trong lịch sử tiền tệ thế giới. Tiền giấy đã được pháp luật nhà Hồ quy định thành những giá trị cao hơn rất nhiều lần so với giá trị rất nhỏ của bản thân tờ giấy. Tiền giấy tồn tại từ năm 1402 đến năm 1407 khi nhà Minh sang xâm lăng nước ta. Sự mất chính quyền của nhà Hồ đã giúp thói quen cầm trong tay những đơn vị tiền bằng đồng nặng hàng nhiều năm trở lại với nhân dân Đại Việt. Người ta bắt đầu bỏ tiền giấy và quay trở lại tiền đồng cho đến những năm cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn. Nếu chúng ta nhớ rằng, cho đến những năm 1700, nghĩa là gần 300 năm sau cải cách của Hồ Quý Ly ở Việt Nam, châu Âu mới bắt đầu phổ biến tư tưởng của Fransico Quesnay (1694 - 1774) về nguyên tắc phát hành tiền giấy và mãi đến năm 1826, một số vùng của nước Anh mới rải rác bắt đầu dùng luật quy định giá trị cho tiền giấy, chúng ta sẽ thấy sự vĩ đại trong tư tưởng của Hồ Quý Ly. Ông là người đã vượt trước thời đại của mình nhiều năm trong việc phát hành tiền pháp định. Sau cải cách của Hồ Quý Ly, lịch sử tiền giấy pháp định trải qua rất nhiều giai đoạn chìm nổi. Năm 1609, Ngân hàng tư nhân đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Amsterdam, bắt đầu phát hành tiền giấy dưới dạng các chứng thư vàng (gold certificates). Tuy nhiên, tiền giấy của ngân hàng công cộng đầu tiên này là tín tệ, không phải là tiền luật định cho đến ngày nó sụp đổ vào năm 1819. Năm 1690, tiểu bang Massachusetts, một trong các thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ, trả cho nh́ững người lính và một số viên chức chính quyền tiền giấy cũng dưới dạng những tín tệ hoàn toàn có thể chuyển đổi ra tiền vàng hoặc khi cần. Tuy nhiên do tiền giấy phát hành quá nhanh, đến một thời điểm, chính quyền thuộc địa không còn đủ kim loại quý để bảo đảm cho tiền. Hệ quả là Rhode Island và South Carolina bắt đầu đưa ra loại tiền giấy không đổi thành vàng vào các năm sau đó. Các xứ thuộc địa ở miền Trung như Delaware - Maryland - New Jersey - New York và Pennsylvania bắt đầu học theo cách của hai tiểu bang nói trên, phát hành loại tiền giấy do pháp luật quy định và không đổi ra vàng bạc vào các năm 20 và 30 của thế kỷ XVlll. Chính quyền Anh quốc không đồng ý với cách làm của các xứ thuộc địa. Cho đến thời điểm ấy, Ngân hàng Anh quốc, một ngân hàng tư nhân thành lập năm 1694 cũng chỉ được 1 Trần Trọng Kim - Việt Nam sử lược - NXB Tân Việt - Sài Gòn, 4/1958, trang 179 18
  20. Chương 2 - Hệ thống tiền tệ phép độc quyền phát hành tiền giấy trên toàn xứ Anh (England) với điều kiện phải có bảo đảm vàng. Nghĩa là, tiến giấy ở Anh, và có thể nói ở cả châu Âu, lúc bấy giờ vẫn còn là tín tệ chứ chưa phải luật định. Năm 1751, việc phát hành tiền giấy không bảo chứng quý kim bị cấm ở New England và đến năm 1764, tất cả những loại tiền giấy phát hành không có bảo đảm vàng đều bị cấm trên toàn lãnh thổ của 13 thuộc địa Bắc Mỹ. Tiền giấy pháp định lại bị đẩy lùi, nhường chỗ cho tín tệ. Mặc dù tiền giấy pháp định lại được phát hành để phục vụ cho cuộc chiến đấu giành độc lập năm 1776, nhưng do hậu quả phát hành nhiều, dẫn đến siêu lạm phát trong các năm sau đó, khiến chính quyền liên bang và các tiểu bang của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục cấm phát hành tiền giấy không bảo chứng vàng theo Luật Điều tiết tiền tệ năm 1780. Cho đến cuộc chiến tranh Nam Bắc năm 1861, tiền giấy ở Hoa Kỳ vẫn là tín tệ do các ngân hàng tư nhân phát ra. Giấy bạc xanh phát hành trong chiến tranh tiếp tục được phép đổi ra vàng. Và cho đến năm 1879, những tờ giấy bạc xanh tổng cộng bằng 20,67 đô la Mỹ (USD) có giá trị tương đương (và được phép đổi vào bất kỳ lúc nào) với 1 ounce vàng nguyên chất (999,9). Cùng khoảng thời gian ấy, cho đến năm 1847, 1857 và 1866, các Luật điều chỉnh của ngân hàng Anh quốc (Bank of England) vẫn quy định các ngân hàng lưu giữ dự trữ vàng tối thiểu (minimum gold reserves), để đảm bảo cho tiền giấy đã được phát hành cũng như để chuyển đổi nó cho nhân dân mỗi khi họ có nhu cầu. Năm 1878, Quốc hội Hoa Kỳ áp dụng lần đầu việc quy định tiền giấy giá trị và không cho phép đổi ra vàng hay bạc. Tuy nhiên, thói quen giữ tiền vàng và bạc như là của cải của nhân dân vẫn còn mạnh và năm 1893, Quốc hội lại chuyển trở lại chế độ bảo chứng cho mãi đến năm 1933. Trận đại suy thoái đã thực sự chấm dứt hoàn toàn chế độ tín tệ với bảo chứng vàng. Năm 1933, nhân dân Hoa Kỳ được kêu gọi bán vàng cho chính phủ với giá mỗi ounce bằng 20,67 USD. Từ năm 1933 cho đến năm 1975, giữ vàng như một loại tài sản bị xem là hành động không hợp pháp đối với các công dân nước Mỹ. Và từ những năm sau 1933, tiền giấy, chứng thư vàng của kho bạc Hoa Kỳ, được pháp luật quy định một cách dứt khoát là không được phép đổi ra vàng, có giá trị lưu hành bắt buộc trên toàn lãnh thổ. Giai đoạn tiền giấy pháp định chính thức bắt đầu ở nước Mỹ. Người dân chỉ có thể dùng tiền giấy để mua vàng trên thị trường như một loại hàng hóa bình thường khác. Hoàn toàn không còn khái niệm đổi giấy ra vàng ở những nơi phát hành ra nó như thói quen trước đây. Những năm đầu thế kỷ XX chứng kiến nhiều biến chuyển lớn về kinh tế và chính trị trên thế giới. Các quốc gia lần lượt đi từ chế độ tín tệ sang luật định. Năm 1928, luật pháp vẫn còn bắt buộc việc phát hành tiền của nước Anh phải có đảm bảo vàng và trong năm ấy, ngân hàng Anh quốc chỉ được phép phát hành 260 triệu pound. Đến tháng 8 năm 1931, con số này lên tới 275 triệu nhưng cũng vẫn là tín tệ. Tháng 3 năm 1933, tiền giấy trong lưu thông của nước Anh chỉ còn 260 triệu, và đến tháng 12 năm 1936, nó chỉ còn 200 triệu pound do nhân dân lo sợ sự mất giá của tiền vì khủng hoảng, đã mang một số đến đổi ra vàng. Chiến tranh thế giới II đã buộc nước này phải từ bỏ quan niệm phát hành tiền giấy bảo chứng vàng có từ những năm 1964. Chi phí cho chiến tranh và sự chuẩn bị cho những cuộc chiến kế tiếp, đã buộc chính quyền Anh phải yêu cầu ngân hàng Anh phát hành những số tiền lớn không bảo chứng. Tháng 9 năm 1939, trong khi tổng dự trữ vàng của Ngân hàng Anh chỉ có giá trị tương đương 280 triệu pound, nước Anh đã phát hành ra thị trường 580 triệu pound. Đến tháng 6 năm 1940, trong khi dự trữ vàng không thay đổi, tiền giấy phát hành đã lên tới 630 triệu, tháng 12/1942: 950 triệu, tháng 12/1945: 1.400 triệu và đến cuối năm 1953: tiền giấy Anh đã lên tới 1.675 triệu pound.1 Nước Pháp từ những năm 1928, Nhật Bản từ các năm 1939, 1941 cũng bắt đầu phát hành tiền giấy theo luật định và không có bảo chứng vàng. Số lượng phát hành vào mỗi thời kỳ chỉ nằm trong những giới hạn tối đa do luật pháp quy định (chúng ta sẽ bàn về nguyên tắc này trong các phần sau). 1 M.H. De Kock - Central Banking - Staple Press, London, 1967, P.31 19
  21. Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh Sau chiến tranh thế giới II, với sự ra đời đồng loạt các ngân hàng trung ương và việc quốc hữu hóa các ngân hàng trung ương về sở hữu công cộng, việc phát hành tiền có bảo chứng quý kim (hay tín tệ) thực sự chấm dứt trên thế giới. Các nước chỉ còn lưu dụng tiền pháp định và một loại thứ hai quan trọng không kém đó là tiền của ngân hàng (Bank note hay Bank money). 2.1.2.3. Tiền của hệ thống ngân hàng trung gian (bank note) Tiền pháp định (Fiat money) còn được gọi là tiền mặt ngày nay, là tiền của nhà nước, của các chính phủ. Hầu như các chính phủ đều ủy quyền việc phát hành tiền pháp định cho một ngân hàng của chính phủ đó là ngân hàng trung ương. Thông thường, chúng ta gọi tiền mặt hay tiền pháp định là tiền của ngân hàng trung ương để dễ phân biệt với một loại tiền của hệ thống ngân hàng còn lại là hệ thống các ngân hàng trung gian. (Phần 2 sẽ cho biết sự khác nhau giữa hai hệ thống này). Tiền của hệ thống ngân hàng trung gian (bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các tổ chức tín dụng ) chiếm bộ phận lớn nhất trong tổng khối tiền tệ ngày nay. Một nền kinh tế càng đi dần vào hiện đại, càng phát triển bao nhiêu, nền kinh tế ấy càng sử dụng nhiều hơn tiền do các ngân hàng trung gian tạo ra. Năm 1980, tiền của hệ thống ngân hàng trung gian (NHTG) dưới dạng séc và tài khoản không kỳ hạn dùng trong thanh toán tại Hoa Kỳ, lớn gấp 3 lần tổng khối tiền giấy do hệ thống dự trữ Liên bang Hoa Kỳ phát hành. Và đến năm 1993, tổng khối lượng thanh toán bằng séc trong lưu thông lớn gấp 39,4 lần tổng khối lượng thanh toán bằng tiền mặt của nhà nước (Bảng 2.1 dòng 1 và 2). Bảng 2.1: Tổng giá trị USD đã được sử dụng trong thanh toán (1978-1993) Năm Tổng trị giá đô la đã được Tỷ lệ % trên tổng giá trị sử dụng (tỷ USD) đã được sử dụng Phương thức thanh toán 1978 1987 1993 1978 1987 1993 Tiền mặt 378 1.400 3.400 0,45 0,410,38 Séc 15.000 15.000 134.000 18,13 16,3715,16 Các loại khác 125 125 995 0,15 0,12 0,11 Tổng giá trị thanh toán bình 15.500 56.234 138.395 18,73 16,49 16,65 thường Chuyển tiền tự động 65.983 281.000 738.300 79,75 82,4583,52 Thanh toán qua hệ thống điện 1.250 3.601 7.290 1,51 1,05 0,82 tử Tổng thanh toán qua hệ thống 67.233 284.601 745.590 81,26 83,51 83,34 điện tử Tổng cộng 82.733 340.835 883.985 100,00 100,00100,00 Tuy ngân hàng ra đời từ rất lâu, tiền của nó (bank notes) chỉ thực sự được lưu hành rộng rãi từ đầu thế kỷ XX. Ngân hàng có tầm cỡ lớn đầu tiên, ngân hàng Amsterdam thành lập năm 1609, chỉ làm nhiệm vụ giữ tiền là chủ yếu với một số hoạt động phát hành tín tệ thay cho chính phủ. Từ năm 1609 đến 1694, các ngân hàng đều có quyền tạo ra những tờ giấy bạc có hiệu lực pháp lý như nhau trong lưu thông. Chỉ sau khi các nhà nước lần lượt giới hạn quyền phát hành những loại giấy bạc như thế về một số ngân hàng chính, những ngân hàng còn lại mới bắt đầu có khuynh hướng tạo ra những loại chứng thư cho vay hoặc tiền gửi trong các Ngân hàng trung gian (NHTG) được chấp nhận ở mức độ khá hạn hẹp. Mãi sau 1945, khi các nhà nước đã thực sự quốc hữu hóa các ngân hàng trung ương (NHTW) và độc quyền phát hành giấy bạc pháp định, các loại chứng thư của hệ thống NHTG mới bắt đầu được chấp nhận rộng rãi như tiền. Nếu chúng ta gửi 1.000VND vào một ngân hàng thương mại (NHTM), chúng ta sẽ nhận được một giấy chứng nhận rằng chúng ta đã gửi và có quyền sở hữu 1.000VND trong 20
  22. Chương 2 - Hệ thống tiền tệ NHTM nói trên. Giấy chứng nhận ấy (hay chứng thư) đã thay thế cho 1.000VND giấy bạc của nhà nước. NHTM hiện đại bắt đầu quá trình tạo ra tiền của nó, khi nó không giữ nguyên vẹn 1.000VND của chúng ta trong tài sản có. Ngày nay không một NHTM nào làm thế vì nó sẽ chết bởi việc trả lãi cho tiền chúng ta gửi trong khi không tạo ra được một đồng lãi khác nào. Vì lý do đó, các NHTM sẽ có khuynh hướng tìm cách cho vay ngay số tiền chúng ta đã gửi để kiếm lời. Về mặt lý thuyết, các NHTM có thể cho vay đến đồng bạc cuối cùng trong số 1.000VND nói trên. Nhưng như chúng ta sẽ bàn trong phần kế tiếp, các ngân hàng luôn luôn cần có những khoản dự trữ tối thiểu để đề phòng cho những đợt rút tiền bất ngờ của chúng ta. Khoản dự trữ tiền mặt này gọi là “dự trữ bắt buộc” (reserve requirements). Giả định rằng NHTM có tỷ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là 10% nghĩa là cứ có 100VND được gửi vào, ngân hàng sẽ giữ lại 10% hay 10VND làm dự trữ, và tìm cách cho vay 90VND tiền mặt còn lại. Một ngân hàng hoạt động có hiệu quả là một ngân hàng có đủ những khách hàng an toàn để cho vay hết 90% này. Những NHTM kém hiệu quả là những ngân hàng không có đủ thân chủ có thể tin tưởng để cho vay hết tiền. Do vậy, vào cuối kỳ, dự trữ của họ hơn 10%. Trở lại thí dụ trên, giả định tiếp rằng NHTM mà chúng ta gửi 1.000VND vào là một ngân hàng hiệu quả, có nghĩa nó chỉ giữ lại 10% số tiền của chúng ta làm dự trữ và cho vay hết ngay 90% (900VND). Người đến ngân hàng nói trên (tạm gọi là ngân hàng thứ nhất) để vay tiền sẽ sử dụng ngay tiền của họ. Sẽ không ai vay tiền để giữ trong túi ở nhà mà trả lãi. 900VND được người vay tiền xài. Người bán hay người cung ứng dịch vụ cho họ nhận được 900VND, sẽ có thể gửi nó ngay vào ngân hàng. Vì gửi vào ngân hàng thì an toàn hơn và tiền có thể sinh lãi mỗi ngày. Người bán này cũng sẽ nhận được một chứng thư tương đương 900VND đã gửi. Ngân hàng thứ hai (cũng có thể cùng một ngân hàng thứ nhất) nhận được 900VND sẽ giữ lại 10% hay 90VND trong kho tiền mặt làm dự trữ bắt buộc. Cho rằng đây cũng là một ngân hàng hoạt động hiệu quả, nó có thể cho vay được ngay 90% hay 810VND. Quá trình cứ như thế tiếp diễn, với mỗi lần nhận tiền gửi, 10% bằng tiền mặt được giữ lại và 90% được cho vay ra lưu thông. Bảng 2.2: Tóm tắt quá trình tạo ra Bank-notes của hệ thống ngân hàng trung gian Ngân hàng Tài sản nợ Tài sản có - Cho vay 900VND Ngân hàng I Tiền gửi 1.000VND - Dự trữ bắt buộc 100VND - Cho vay 810VND Ngân hàng II Tiền gửi 900VND - DTBB 90VND - Cho vay 729VND Ngân hàng III Tiền gửi 810VND - DTBB 81VND Ngân hàng IV Ngân hàng V - Tổng cho vay 9.000VND Tổng các ngân hàng Tổng tiền gửi 10.000VND - Tổng DTBB 1.000VND Bảng 2.2 là sự thể hiện tóm tắt quá trình trên. Trong thực tế, chỉ có 1.000VND đầu tiên là bằng tiền giấy của nhà nước, từ 1.000 tiền giấy này, hệ thống ngân hàng đã tạo ra tổng cho vay là 9.000VND, 1.000 tiền giấy đầu tiên rải ra thành dự trữ trong hệ thống ngân hàng. Người ta có thể nói rằng các NHTM không hề tạo ra bất cứ một đồng tiền pháp định nào khác ngoài 1.000VND pháp định đã được chúng ta gửi vào đầu tiên. Tuy nhiên, cái mà hệ thống NHTM tạo ra trong thí dụ trên là những khoản cho vay. Đã có một tổng cho vay là 9.000VND phát sinh và thông qua việc phát sinh 9.000VND cho vay này, nền kinh tế đã có những trao đổi, mua bán hoặc sản xuất chung quanh việc sử dụng nó. NHTM đã tạo ra một ảnh hưởng đến nền kinh tế thông qua hoạt động cho vay. Những khoản cho vay ấy là tài sản có do NHTM tạo ra và nó sẽ thu hồi. 21
  23. Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh Khi chúng ta với tư cách người gửi đến ngân hàng gửi tiền, ngân hàng trao cho chúng ta một chứng thư xác nhận việc chúng ta đã gửi tiền. Có 2 hình thức chứng thư, (1) Chứng thư có kỳ hạn cho biết rằng chúng ta gửi tiền có kỳ hạn mới lấy lại. Kỳ hạn ấy có thể là 3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc hơn nữa. Tiền gửi có kỳ hạn (time deposits) ngày nay có 2 loại tiền gửi: tiền gửi tiết kiệm (savings deposits) và tiền gửi có kỳ hạn. (2) Chứng thư không kỳ hạn phản ánh rằng chúng ta gửi tiền, nhưng có thể chúng ta cần tiền và rút ra bất cứ lúc nào. Chứng thư không kỳ hạn thường ở dưới hình thức sổ séc, và tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tiền gửi rút ra theo nhu cầu (demand deposits). Trong thí dụ trên, tổng tiền gửi là 10.000VND nghĩa là NHTM đã phải xuất ra những chứng thư như sổ séc, sổ tiết kiệm, hoặc sổ tiền gửi có kỳ hạn với tổng giá trị là 10.000VND. Như chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn ở phần II, từ 2000 năm trước Công nguyên người ta đã ý thức rằng những chứng thư gửi tiền ấy là những loại hình tương đương tiền, và người ta đã từng dùng nó trong thanh toán khi cần, thay vì phải đến tận ngân hàng rút ra những đồng tiền vàng cho các giao dịch. Người ta chấp nhận nó dễ dàng vì người ta tin rằng họ có thể dùng nó để rút tiền ra nếu cần. Điều này đặc biệt thuận lợi nếu cả hai bên thanh toán và nhận thanh toán đều gửi tiền ở cùng một ngân hàng. Đến đầu thế kỷ XX, hầu như mọi ngân hàng trong mỗi quốc gia đều liên hệ với nhau dễ dàng thông qua NHTW. Do đó, mọi người đều có thể xem như gửi tiền trong cùng một ngân hàng. Chính cơ sở này đã giúp cho sự thanh toán lẫn nhau bằng chứng thư được dễ dàng. Chứng thư ấy chính là tiền của NHTM hay Bank-notes. Mấu chốt để thí dụ đơn giản trong Bảng 2.2 trở thành sự thật như lý thuyết cần đến hai điều. Thứ nhất, các NHTG phải hoạt động tốt một cách tương đối đồng bộ. Nghĩa là vào cuối mỗi kỳ, mỗi NHTG đều cho vay hết đến 90% tiền đã gửi. Thứ hai, là tất cả những khoản tiền mà NHTG thứ nhất đã cho vay sau khi giao dịch sẽ được gửi lại vào hệ thống NHTG. Hay nói cách khác, không có tình trạng lưu dụng tiền mặt hoặc giữ tiền mặt trong túi với thời gian lâu. Chỉ cần lượng tiền mà một NHTG bất kỳ trong hệ thống cho vay, sau khi giao dịch bị một công chúng giữ lại mà không gửi vào ngân hàng, quá trình trên sẽ tắc nghẽn ở đó và lượng tiền ngân hàng (bank-notes) do các NHTG khác tạo ra sẽ thấp hơn nhiều so với lý thuyết. Thấp hay cao bao nhiêu so với mức lý thuyết là 10.000VND của thí dụ trên và nguyên nhân của nó là điều chúng ta sẽ bàn ở phần II. Điều quan trọng ở đây là, dù ít hay nhiều, khi NHTG đã nhận được tiền gửi, nó sẽ phải xuất ra các chứng thư xác nhận việc đã gửi của công chúng. Chứng thư ấy là tiền của NHTG. Trong những nền kinh tế kém phát triển, việc gửi tiền vào ngân hàng đôi khi khá khó khăn, là nguyên nhân khiến người ta ít muốn gửi tiền vào NHTM, và không muốn chấp nhận các chứng thư như séc trong trao đổi, thanh toán. Nhưng khi nền kinh tế đã phát triển, hệ thống NHTG được hiện đại hóa từ phương tiện đến con người, việc gửi tiền vào chỉ mất không quá 5 phút và rút tiền ra chỉ trong vòng 30 giây. Người ta sẽ thấy rằng gửi tiền vào ngân hàng là có lợi ích so với giữ tiền mặt trong túi. Vì tiền mặt trong túi thì không sinh lãi so với giữ tiền trong ngân hàng sinh lãi mỗi ngày. Giữ tiền mặt dễ mất hơn là séc trong khi sự tiện lợi là như nhau, vì từ séc có thể chuyển sang tiền mặt một cách nhanh chóng vào bất cứ lúc nào. Đến lúc ấy, nhân dân sẽ xem séc và các loại chứng thư tiền gửi khác do NHTG cấp cũng chẳng khác gì tiền mà thậm chí còn tốt hơn tiền mặt về nhiều phương diện. Tiền của NHTG (bank-notes) trở thành phương tiện thanh toán như tiền mặt ở các nước Tây Âu - Bắc Mỹ và các nước đang phát triển dựa trên những cơ sở như vậy. Tiền của NHTG (bank-notes) không là tiền pháp định của nhà nước nhưng nó có giá trị không khác gì tiền của nhà nước trong thanh toán và giao dịch. Người ta gọi đó là hình thái gần tiền mặt hay chuẩn tệ (near money). Tiền của NHTG (bank notes) hình thành hai bộ phận quan trọng nhất của tiền tệ ngày nay, đó là 2 loại mà người ta đặt tên là M1 và M2 với: M1 = Tiền mặt (tiền của nhà nước) + Tiền gửi không kỳ hạn tại các NHTG và M2 = M1 + Tiền gửi tiết kiệm và có kỳ hạn trong các NHTG 22
  24. Chương 2 - Hệ thống tiền tệ Bảng 2.1 ở phần trước cho thấy trong năm 1993, thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế Hoa Kỳ chỉ chiếm 0,38% tổng thanh toán. Nhưng thanh toán bằng séc chiếm tới 15,16% hay hơn gấp 37 lần thanh toán bằng tiền mặt. Điều đó cho thấy rằng tiền của NHTG ngày càng chiếm ưu thế tuyệt đối trong giao dịch bằng tiền pháp định, séc, các chứng thư tiền gửi tiết kiệm và có kỳ hạn, một số các loại chứng thư và phiếu nợ khác hợp thành hệ thống các loại tiền tệ ngày nay. 2.2. Hệ thống tiền tệ ngày nay Thực ra cho đến những năm cuối thế kỷ XX này, định nghĩa và phân biệt giữa các loại tiền với nhau vẫn có nhiều ý kiến không thống nhất. Rất nhiều nhà kinh tế không chấp nhận rằng bank-notes là tiền. Đối với họ, chỉ có tiền mặt của NHTW mới được gọi là tiền. Bên cạnh những quan điểm cực đoan như vậy, lại cũng có những định nghĩa rất rộng về tiền. Ở Anh quốc tiền có từ M0 cho đến M4. Ở Đức, cung ứng tiền M3 bao gồm M2 cộng với một số phiếu nợ của chính phủ và các công ty) được xem là quan trọng nhất. Trong khi ở Pháp, M2 và M4 được xem là các định nghĩa hợp lý của tiền trong lưu thông. Trước khi đi vào tìm hiểu các loại M nói trên, điều quan trọng nhất là chúng ta phải định vị cho tiền tệ. Nếu chúng ta đã thống nhất rằng tiền tệ là một phương tiện của trao đổi và được chấp nhận theo luật định như một phương tiện thanh toán trong giao dịch kinh tế, thì điều đó có nghĩa là những loại hình nào thỏa mãn được những tính chất nói trên, đều có thể gọi là tiền. Với cách xác định như vậy thì trong nền kinh tế sẽ có rất nhiều loại tiền, và một đất nước càng phát triển, các hình thái của tiền càng trở nên đa dạng. Điều quan trọng đầu tiên cần phải hiểu như một dẫn nhập vào hệ thống tiền tệ là tính chất của tiền. Sau khi chế độ tiền được bảo chứng bằng quý kim được thay thế hoàn toàn bởi tiền pháp định, không ai còn nghĩ rằng tiền là một loại vật chất quý như những đồng vàng hay bạc ngày xưa. Tiền mặt hay tiền của nhà nước do NHTW phát ra là một loại hình của giấy nợ hay trái phiếu theo nghĩa của từ Hán - Việt. Khi một người đi làm việc cho nhà nước, hoặc một cơ quan kinh doanh bất kỳ nào đó, cuối mỗi tháng, ông ta hay bà ta nhận được, giả thiết là lương do nhà nước (hoặc tư nhân) trả cho 1 tháng công phục vụ. Đứng trên giác độ tính chất, 1.000.000VND này là những tờ giấy do nhà nước độc quyền phát ra để lượng hóa sản phẩm, hàng hóa, và dịch vụ như sức lao đông và một tháng công lao động đã được đánh giá bằng 1.000.000 đơn vị giấy này. Đây là một hình thức của giấy nợ, nó có 3 tính chất cơ bản: (1) nó có số đếm từ hàng đơn vị trở lên, cho nên tổng cộng các giấy nợ người ta có thể biết nó là 100, 1000,100.000 hay 1.000.000, (2) những giấy nợ này mang ý nghĩa của một sự xác nhận rằng, người cầm nó (thí dụ như cầm 1.000.000VND trong thí dụ trên) đã phục vụ cho xã hội (nhà nước hoặc tư nhân) một tháng công lao động, hoặc đã cung ứng một sản phẩm hay hàng hóa gì tương đương như thế, (3) những giấy nợ này được pháp luật quy định rằng nó có thể được dùng để cất trữ, trao đổi thành các loại hàng hóa khác như gạo, mắm, muối, đường, sữa, đóng học phí Chính với tính chất thứ 3 này các giấy nợ đã trở thành vật trung gian để sức lao động, chất xám, kỹ năng được chuyển hóa thành các vật phẩm khác phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của cuộc sống của mỗi cá nhân. Do tiền là một giấy nợ (I owe you), một tính chất tiếp theo ràng buộc việc phát hành các giấy nợ là đơn vị phát hành (trong trường hợp tiền mặt là NHTW hay chính phủ) chỉ có thể tạo ra thêm giấy nợ nếu thực sự có những sự phục vụ khác phát sinh nghĩa là có người cho vay sản phẩm, dịch vụ hay sức lao động. Một cách dễ hiểu, chủ nợ (thí dụ là NHTW) chỉ được phép phát hành ra thị trường những đơn vị 1.000.000VND mới, nếu thực sự có những cá nhân khác đã đóng góp cho xã hội 1 tháng công lao động như người thứ nhất. Hoặc một sản phẩm, một dịch vụ hoặc một lợi ích nào đó cho xã hội tương đương với điều trên. Các loại giấy của NHTW như séc, chứng thư tiền gửi có và không có kỳ hạn, chứng thư tiết kiệm, tín phiếu cũng mang một tính chất như thế. Cái khác nhau là trong trường hợp giấy nợ là tiền mặt pháp định của chính phủ thì người cho vay để được hưởng giấy nợ của chính phủ là tất cả các thành phần nhân 23
  25. Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh dân với khoản cho vay là sản phẩm, hàng hóa, công lao động hoặc những dịch vụ khác do chính họ làm ra cho xã hội như nhà nông, binh sĩ, công nhân, thầy giáo, kỹ sư Trong trường hợp giấy nợ là tiền của NHTG (bank-notes), thì người cho vay để được hưởng giấy nợ của các NHTG là những người gửi tiền pháp định vào ngân hàng. Khoản cho vay là tiền mặt pháp định của chính phủ. Điều đó có nghĩa là người cho vay đã chuyển từ một hình thức giấy nợ không lãi của chính phủ (tiền mặt pháp định) thành những loại giấy nợ khác có lãi của các NHTG. Đây là điều vô cùng quan trọng, nó quyết định sự tồn tại của các loại giấy nợ của NHTG. Trong một nền kinh tế hoạt động chặt chẽ và hiệu quả, nhân dân đồng thời phục vụ cho xã hội theo ngành nghề và theo cách của mình, để rồi cuối mỗi tuần hoặc tháng, họ nhận được những giấy nợ không lãi của chính phủ. Sau đó, để kinh tế hóa các giấy nợ này, họ cấp tốc đem nó gửi vào các NHTG để nhận một loại giấy nợ thứ hai được trả lãi đến từng ngày như một khoản đầu tư. Xã hội tồn tại và phát triển trên sự trao đổi giữa các dạng vật chất khác nhau như sức lao động, trí tuệ, sản phẩm để đổi lấy các dạng vật chất như thực phẩm và tiện nghi đời sống. Phương tiện để các loại hình trao đổi này diễn ra thuận lợi, thúc đẩy quá trình liên tục sáng tạo của con người là các loại giấy nợ kể trên. Các loại giấy nợ này cho đến ngày nay, được thống nhất gọi tên là tiền, là tài sản hay là các khoản đầu tư. Sự đa dạng trong các loại hình giấy nợ theo tiến trình phát triển của nền kinh tế, hình thành nên hệ thống tiền tệ. Ở các nước đã phát triển, hệ thống tiền tệ bao gồm: 2.2.1. Tiền mạnh Tiền mạnh (high-power money) là cách gọi tên của các loại tiền được xác định là tiện lợi nhất trong thanh toán. Nghĩa tiện lợi ở đây được hiểu là dễ dàng đến mức tối đa ở mọi nơi và mọi lúc khi cần trao đổi thành các vật phẩm khác để tiêu dùng. Tiền mạnh có 2 loại chính: 2.2.1.1. Tiền mặt pháp định Thông qua NHTW, các chính phủ phát hành loại giấy nợ “tiền mặt pháp định”. Đây là loại giấy nợ hoàn toàn không có lãi suất và thậm chí lãi suất có thể âm nếu người giữ nó quá lâu, nửa năm hoặc một năm trong những nước có lạm phát cao. Nghĩa là giá trị thực của nó bị bào mòn. Tuy nhiên, tiền pháp định là loại hình thường được tín nhiệm nhất bởi hai lý do đơn giản. Thứ nhất, nó là tiền của chính phủ, mà nhân dân thì bao giờ cũng tin chính phủ của mình hơn bất kỳ tổ chức nào khác. Thứ hai là tiền mặt có hiệu lực trao đổi trên toàn lãnh thổ. Một người cầm séc của một NHTG tại Thành phố Hồ Chí Minh chưa chắc đã mua được hàng ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La. Nhưng một người cầm tiền mặt có thể trao đổi nó để lấy những số lượng nhất định hàng hóa ở bất kỳ đâu trên lãnh thổ Việt Nam. Vì luật pháp chỉ quy định tiền mặt của chính phủ (chứ không phải séc của NHTG) là có hiệu lực thi hành ở mọi nơi, hang cùng ngõ hẻm của Việt Nam, thì séc của NHTG vẫn không có đủ sự tiện lợi như tiền mặt. Tiền mặt là loại phiếu nợ tiện lợi nhất, hay có khả năng thanh toán cao nhất và nhanh nhất vì những lý do trên. Chính khả năng thanh toán cao nhất và nhanh nhất này giải thích vì sao có rất nhiều người thích giữ tiền mặt hơn là các loại phiếu nợ khác mặc dù nó hoàn toàn không đẻ ra lãi. Và điều này có ở ngay những nước công nghiệp chứ không cứ gì ở các nước đang phát triển, là nơi mà hệ thống và mạng lưới ngân hàng còn chưa đầy đủ để phục vụ cho các hình thức thanh toán khác tiền mặt. Nếu có hai người, một người giữ tiền mặt và một người giữ tiền của NHTG cũng chợt phát hiện ở một cửa hàng hẻo lánh có một món hàng tốt được bán với giá rất rẻ, thì đương nhiên người có tiền mặt có thể được chấp nhận ngay, khi anh ta ngỏ ý muốn mua trong khi người cầm các loại tiền khác của NHTG sẽ mất cơ hội tốt nói trên, nếu người chủ cửa hàng không chấp nhận tiền của anh ta do không biết ngân hàng mà anh ta đã gửi tiền. Tiền giấy, tiền mặt, tiền pháp định, tiền của NHTW, tiền của chính phủ là những cách gọi khác nhau của cùng một loại tiền do sự biến thể của dân gian sử dụng. Tổng tiền mặt mà NHTW phát hành ra trong lưu thông được gọi là cơ số tiền tệ (Monetary Base) bao gồm 2 phần: tổng tiền giấy trong tay nhân dân và tổng tiền giấy nằm trong kho của hệ thống ngân 24
  26. Chương 2 - Hệ thống tiền tệ hàng dưới hình thức dự trữ bắt buộc. Về nguyên tắc, tiền mặt chỉ được phát hành khi và chỉ khi có những dịch vụ, hàng hóa hay tài sản mới phát sinh trong xã hội. Trong cơ số tiền tệ, chỉ có tiền mặt trong tay nhân dân (hay tiền mặt ngoài ngân hàng) là thành phần của M1. Tháng giêng năm 1996, tiền mặt trong tay nhân dân Mỹ là 317 tỷ USD (nhưng cơ số tiền tệ là 373,6 tỷ USD), của Pháp đến tháng 2 năm 1996 là 242,2 tỷ FRF. 2.2.1.2. Tiền gửi không kỳ hạn tại các NHTG Bộ phận thứ hai của tiền mạnh là tiền gửi không kỳ hạn (demand deposits) vào mỗi thời điểm trong các tài khoản không kỳ hạn của các NHTG. Tổng tiền gửi không kỳ hạn không phải là tiền mặt nhưng nó là tổng số khả năng có thể viết séc để chi tiêu hoặc chuyển nhượng khi cần. Do vậy, tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tiền trong tài khoản séc (checking accounts). Tiền gửi không kỳ hạn chỉ tương đương với tiền mặt khi nó được rút ra. Vào tháng giêng năm 1996, tổng tiền gửi không kỳ hạn của nước Mỹ tương đương 811 tỷ USD. Khả năng tiện lợi của tiền gửi không kỳ hạn trong thanh toán phụ thuộc vào tổ chức và hoạt động của NHTG đã phát hành ra nó. Nếu chúng ta gửi tiền vào tài khoản này ở một NHTG có chi nhánh ở khắp nơi trên lãnh thổ kể cả những vùng xa xôi hẻo lánh nhất, thì séc do chúng ta viết ra có hiệu lực thanh toán và được chấp nhận nhanh chẳng kém gì tiền mặt. Đó là lý do ở các nước phát triển, người ta xem nó như là một loại tiền mạnh. Tuy nhiên, nếu ngân hàng mà chúng ta gửi tiền vào có quá ít chi nhánh hoặc không quan hệ tốt với các ngân hàng khác, séc của nó do chúng ta viết ra và được chấp nhận trong thanh toán ở vùng này, nhưng chưa chắc đã được chấp nhận ở các vùng khác. Điều này giải thích vì sao ở các nước mới phát triển, tiền séc (hay tiền trong tài khoản không kỳ hạn) vẫn chưa được xem là tiền mạnh. Tiền gửi không kỳ hạn là loại hình gần tiền mặt nhất trong tất cả các loại tiền của NHTG. Khả năng chuyển đổi từ nó sang tiền mặt là nhanh nhất, vào bất kỳ lúc nào. Khả năng chuyển đổi thành tiền mặt, được gọi là khả năng thanh khoản (Liquidity). Trước thập niên 70, tiền trong tài khoản không kỳ hạn không được hưởng lãi suất. Nói cách khác, phiếu nợ loại này không có lãi vì người ta xem nó chẳng khác nào tiền mặt. Cuối thập niên 70, nhiều NHTG đã bắt đầu trả lãi trên loại tiền này. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, lãi suất của nó vẫn là thấp nhất trong hệ thống lãi suất của các loại giấy nợ (IOU) hay tiền khác của NHTG (ngoại trừ tiền mặt của NHTW với lãi suất = 0). Tổng tiền mặt trong tay nhân dân và tổng tiền gửi không kỳ hạn trong toàn bộ hệ thống NHTG hình thành nên tổng cung tiền M1 trong nền kinh tế. Tháng 2 năm 1996, M1 trong nền kinh tế nước Pháp là 1.621 tỷ FRF, của Mỹ là 1.119,1 tỷ USD. 2.2.2. Các loại tiền - tài sản khác Người ta gọi các loại tiền (hay phiếu nợ) sau đây là tiền - tài sản bởi vì nó đồng thời có 2 tính chất: là phương tiện trao đổi, thanh toán và cũng là một khoản đầu tư với lãi suất cao và được tính đến từng ngày. Loại tiền - tài sản này có tính thanh khoản kém hơn nhiều so với tiền mạnh, và đó là điều khác nhau cơ bản. 2.2.2.1. Tiền gửi có kỳ hạn Tiền gửi không kỳ hạn (demand deposits) là bộ phận lớn nhất trong cung ứng tiền M1. Vào năm 1980, 90% cung ứng tiền M1 của Hoa Kỳ là séc và chỉ có 10% là tiền mặt. Tuy nhiên, cũng vào năm nói trên, tiền gửi có kỳ hạn (time deposits) lại nhiều gấp đôi tiền gửi không kỳ hạn. Và vào tháng giêng năm 1996, chỉ có 317 tỷ USD là tiền mặt trong tay nhân dân được dùng để thanh toán trong khi có tới 811 tỷ là séc và 2559,8 tỷ USD là tiền dưới dạng tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn phổ biến nhất là tiền gửi tiết kiệm (savings deposits) trong các NHTM hoặc các ngân hàng tiết kiêm, quỹ tiết kiệm , và những tiền gửi có thời gian xác định khác. Điểm khác nhau giữa tiền gửi có và không có kỳ hạn là tiền gửi có kỳ hạn được trả lãi suất cao (ít nhất là cao hơn tiền gửi không kỳ hạn) và chỉ được rút ra khi tới thời gian đã định trước của nó (3 tháng, 6 tháng, 1 năm hay hơn nữa ) kể từ thời điểm gửi vào. Nếu 25
  27. Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh người gửi muốn rút đột xuất ra tiền mặt, ít nhất phải báo trước cho ngân hàng một số ngày. Thông thường trong những trường hợp như vậy, lãi suất sẽ bị giảm đến mức rất thấp. Các loại tiền gửi có kỳ hạn phổ biến hiện nay là: 2.2.2.1.1. Tiền gửi tiết kiệm Tiền mặt gửi vào tài khoản tiết kiệm là hình thức thông dụng để làm lợi cho những trái phiếu không lãi. Có 2 loại tiền gửi tiết kiệm: a/ Tiền gửi tiết kiệm được thông báo: Hàng tháng, những người gửi tiền mặt vào tài khoản này, nhân được một báo cáo chi tiết về tình hình phát sinh của các giá trị trong tài khoản mình: những số tiền đã được rút ra, chuyển đi hay gửi thêm vào (nếu có), lãi suất phát sinh trong tháng, tồn khoản vào cuối kỳ. Người gửi có thể rút tiền hoặc gửi thêm vào bằng đường bưu điện. b/Tiền gửi tiết kiệm có sổ: Những người gửi tiền mặt vào tài khoản này nhận được một cuốn sổ để theo dõi tình hình tiền gửi của mình giống như sổ tiết kiệm ở Việt Nam. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm có sổ yêu cầu người gửi phải trực tiếp mang sổ đến ngân hàng hoặc chi nhánh của nó, mỗi khi có nhu cầu gửi thêm tiền mặt vào hoặc rút bớt ra hay chuyển vào tài khoản khác. Sau mỗi lần như vậy, ngân hàng sẽ thực hiện những ghi chú trên sổ để diễn giải những gì đã phát sinh. 2.2.2.1.2. Tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ Ở các nước đã phát triển, người ta phân tiền gửi có kỳ hạn dưới 100.000 USD ra thành nhóm tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ nhằm phân biệt với những loại tiền gửi có số lượng lớn hơn thuộc vào nhóm tiền tệ M3. Sở dĩ có sự phân loại thành M1, M2, M3 là vì - điều mà chúng ta sẽ làm rõ dưới đây - nhằm tách những loại tiền khác nhau về mặt thanh khoản ra thành từng nhóm. Các nhóm tiền càng đi về sau này, càng có khả năng thanh khoản kém hơn và càng mang tính chất của một khoản đầu tư. Tuy nhiên ở những nước đang phát triển với thị trường tiền tệ chưa hoàn chỉnh, chưa có sự phân biệt giữa M1 và M3 và tất nhiên là chưa có việc chia ra “Tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ” hay “loại lớn”. Tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ ở các nước phát triển bao gồm các thành phần sau: a/ Chứng thư tiền gửi có kỳ hạn Là các loại chứng thư tiết kiệm (Savings certificates) - giấy chứng nhận tiền gửi có kỳ hạn (Certificates of deposits - CDs). Theo quy định của các NHTW các nước đã phát triển, các loại chứng thư này có giá trị không lớn hơn 100.000 USD. Các loại chứng thư này thường là những tờ giấy chứng nhận có 2 mặt (như công trái, trái phiếu ở Việt Nam) trên đó ghi rõ nơi phát hành, ngày phát hành, đơn vị phát hành, số tiền mặt đã gửi vào, lãi suất (%), ngày hoàn vốn và lãi hay là ngày đáo hạn (Maturity). Giống như các loại tiền gửi có kỳ hạn khác, loại chứng thư này có thể dùng để giao dịch, thế chấp hoặc đem bán như một loại tài sản. Nhưng nó không được dùng để rút tiền mặt ra trước ngày đáo hạn. Nếu chúng ta nhất thiết phải rút ra như thế, chúng ta phải chịu lãi suất phạt do đơn vị phát ra áp đặt. b/ Trái phiếu tiết kiệm Là loại hình gửi tiền có kỳ hạn bằng cách dùng tiền mặt để mua các phiếu nợ tiết kiệm do kho bạc, chính phủ, chính quyền địa phương hay các công ty, ngân hàng phát ra, tùy theo mức độ phát triển của mỗi quốc gia, loại trái phiếu thông thường khác về mục tiêu phát hành và lãi suất. Mục tiêu phát hành của loại trái phiếu này là nhằm huy động những đồng tiền để dành và tiết kiệm của nhân dân, cho nên loại vốn này - sau khi huy động - phải được dùng vào những việc có lợi ích cho xã hội và tuyệt đối an toàn. Tiếp theo là lãi suất. Lãi suất loại trái phiếu này thường cao hơn các trái phiếu đầu tư khác, nhằm thể hiện sự ưu đãi những đồng tiền gửi xuất phát từ sự dành dụm của nhân dân lao động. Thời gian đáo hạn của loại trái phiếu này thường là 1 năm trở lên đến hàng chục năm. Trái phiếu tiết kiệm do kho bạc phát ra có thể được gọi là trái phiếu tiết kiệm kho bạc (Treasury-Saving bonds). Trái phiếu tiết kiệm do chính quyền trung ương hoặc địa phương phát ra, vì mục đích huy động vốn cho những công trình xây dựng cơ bản lâu hoàn vốn có thể nằm dưới tên gọi: trái phiếu đô thị hoặc trái phiếu nhà nước (công trái tại Việt Nam). Trái phiếu tiết kiệm do các công ty, tổ chức tài chính hay ngân hàng phát hành được gọi chung là trái phiếu tiết kiệm. 26
  28. Chương 2 - Hệ thống tiền tệ 2.2.2.2. Trái phiếu ngắn hạn được mua lại của các NHTM Loại phiếu nợ hay tiền này được viết tắt là REPO hoặc RPs (Overnight Repurchase Agreement of Commercial Banks). Theo luật ngân hàng ở các nước phát triển, các NHTM được phép bán các loại trái phiếu của nhà nước hoặc trái phiếu của chính ngân hàng cho nhân dân, để thu tiền mặt về trong những hoàn cảnh cấp bách với thỏa thuận sẽ mua lại nó với giá cao hơn (giá cũ kèm với lãi suất) trong những khoảng thời gian rất ngắn (một đêm, một ngày, hai, ba ngày hay một tuần ). Loại tiền ngắn hạn này giúp các NHTG, các tập đoàn sản xuất giải quyết những yêu cầu gấp về tiền mặt cho sản xuất và kinh doanh. 2.2.2.3. Trái phiếu đô la euro (euro-dollar) Loại phiếu nợ này rất phổ biến ở các nước công nghiệp trong khối G-10. Đô la euro là một loại chứng thư có thể được chuyển đổi dễ dàng thành USD khi cần thiết, thường do các ngân hàng ngoại thương phát ra. Loại phiếu nợ này cũng có 2 mặt ghi chú rõ ràng ngân hàng ngoại thương đã phát hành ra nó, nơi phát hành, ngày phát hành, lãi suất, ngày đến hạn và số tiền USD trên bề mặt của nó Khi nhân dân muốn đầu tư vào loại tài sản (hay phiếu nợ) này để hưởng lãi suất, họ đem USD ra mua lấy nó. Giá trị của nó trên tay người cầm là tương đương với giá trị USD đã bỏ ra để mua cộng với tiền lãi tính từ ngày mua cho đến thời điểm nói trên. Loại phiếu nợ này khi mua cũng phải mua bằng USD và khi bán (hoặc khi đến hạn) cũng được các ngân hàng ngoại thương trả lại bằng USD. 2.2.2.4. Tiền gửi trong các quỹ tín dụng của thị trường tiền tệ Ở các nước có thị trường tiền tệ lớn như Nhật, Mỹ, Pháp, Đức, Anh , khi nhân dân có một ít tiền mặt tiết kiệm và không muốn mất công làm thủ tục gửi vào các ngân hàng vì không đáng, và cũng có thể vì họ có thể bất chợt rút ra ngay sau khi gửi chỉ vài ba hôm, để thuận tiện họ thường gửi vào các quỹ tiết kiệm, các quỹ tín dụng trên thị trường tiền tệ. Hầu hết các khoản gửi này có lãi suất khá cao (vì đây là biện pháp mà thị trường tiền tệ dùng để thu hút tiền nhàn rỗi ngắn hạn). Thời gian gửi rất ngắn từ một ngày đến vài ba tuần, số lượng có thể rất nhỏ (tương đương 100 hoặc 200 USD) đến rất lớn. Tổng hợp các loại tiền nhàn rỗi rất ngắn hạn này lại hình thành nên những khoản vốn rất khổng lồ. Người gửi cũng được phép viết séc để thanh toán và thường là họ trao thẳng chứng thư cho đối tác của họ khi thanh toán. Đối tác của họ có thể dùng chứng thư hay phiếu nợ này để mua bán tiếp hoặc đem đến quỹ để đổi tiền mặt. 2.2.2.5. Tài khoản gửi ở thị trường tiền tệ (money market deposit accounts) Loại tiền gửi vào tài khoản này có thời gian dài hơn. Người gửi cũng có quyền viết séc để thanh toán khi cần với số tiền được giới hạn. Lãi suất cũng khá cao như phiếu nợ của các quỹ tín dụng trên thị trường tiền tệ. Chứng thư của loại tài khoản này cũng là một loại tài sản mang tính đầu tư ngắn hạn vừa có thể được dùng để mua bán hoặc thanh toán trên thị trường tiền tệ. 2.2.2.6. Các loại tiền theo nghĩa rộng hơn (broader definition of money) Thành phần tiền theo nghĩa rộng (hay phiếu nợ cũng thế) bao gồm các loại tiền đã kể trên (được gọi chung là M2) với một số loại khác. Tiền theo nghĩa rộng được các nước đã phát triển thống nhất gọi tên là M3. Những loại khác trong thành phần của M3, ngoài M2 là: 2.2.2.6.1. Tiền gửi có kỳ hạn loại lớn Khác với tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ, tiền gửi có kỳ hạn loại lớn ở các nước công nghiệp tương ứng với những khoản gửi từ 100.000 USD trở lên. Cái khác nhau cơ bản giữa loại chứng thư này với loại chứng thư của tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ ở mục 2.2.2.1.2 là chứng thư loại nhỏ không được chuyển thành tiền mặt khi chưa đến hạn, trong khi loại lớn thì có thể chuyển dễ dàng mà không phải chịu phạt. Hầu hết các xí nghiệp, tập đoàn sản xuất ở các nước công nghiệp đều sở hữu rất nhiều loại trái phiếu này. Họ có thể dùng nó để thanh toán tiền hàng trong sản xuất, mua bán. Có thể dùng chính nó để mua bán trên thị trường tiền tệ. Có thể dùng nó để chuyển ngay thành tiền mặt của nhà nước hoặc cất giữ nó để hưởng lãi 27
  29. Tiền và hoạt động ngân hàng - TS. Lê Vinh Danh suất như một loại tài sản được đầu tư. Trên thị trường tiền tệ, loại này có tên gọi là Jumpo CDs (jumpo certificates of deposits). 2.2.2.6.2. Các loại trái phiếu được mua lại của các ngân hàng, quỹ tiết kiệm, quỹ tín dụng Loại tiền này giống như tiền ở mục 2.2.2.4, với tên gọi riêng là Term RPs (term of repurchase agreement of commercial banks, savings banks, savings and loan associations). Cái khác nhau chủ yếu của loại này là trái phiếu dài hạn với thời gian tối thiểu một tuần trở lên đến hàng tháng, hàng năm. Giá trị tiền gửi trên bề mặt của nó cũng khá lớn, lãi suất cao. 2.2.2.6.3. Đô la euro (euro-dollar) Giống như đô la Euro ở mục 2.2.2.3 nhưng với thời gian đáo hạn dài hơn. Vấn đề khác nhau rất quan trọng giữa các thành phần vừa kể trên của cung ứng tiền M3 và các thành phần tương tự của nó ở cung ứng tiền M2, là khả năng thanh toán (liquidity) hay nói dễ hiểu hơn, là khả năng chuyển đổi từ các loại tiền nói trên trở lại thành tiền mặt của nhà nước. Các thành phần tiền của M2 (RPs - Euro dollar - CDs) có thanh khoản cao hơn những loại tương tự của M3 (Jumpo RPs, Term Euro dollar-Jumpo CDs) vì điều đơn giản là nó có thời gian đáo hạn (thời gian mà các đơn vị phát ra nhận lại nó để trả tiền mặt) ngắn hơn. Từ định nghĩa về thanh khoản (liquidity) viết tắt là L, và khả năng thanh toán nhanh hay chậm, xuất hiện loại tiền cuối cùng trong hệ thống tiền tệ ở Anh gọi là M4, ở Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nhật và nhiều nước khác gọi là L. 2.2.2.7. Các loại tài sản thanh khoản (liquidity assets) khác Chứng thư của các loại tài sản thanh khoản này là một loại hình của tiền vì nó có đủ những tính chất như các loại tiền nói trên: có thể dùng để thanh toán, mua bán, trao đổi, dự trữ để lấy lãi hoặc chuyển thành tiền mặt của nhà nước khi cần. Chứng thư tài sản thanh khoản (L) cũng là phiếu nợ (trái phiếu) như các loại trên. Đơn vị phát ra nó là con nợ hay người đi vay. Người cầm nó là chủ nợ, người cho vay, L bao gồm tất cả M3 ở trên và một số phiếu nợ khác như: - Trái phiếu kho bạc (Treasury bonds) - Cổ phiếu kho bạc (Treasury shares) - Trái phiếu công ty (Corporate bonds) - Cổ phiếu công ty (Corporate shares) - Thương phiếu (Commercial papers) - Hối phiếu kho bạc (Treasury bills) - Các loại phiếu nợ hay chứng khoản (Securities) khác. Tất cả các loại tiền nói trên hợp thành hệ thống tiền tệ. Bảng 2.3 dưới đây trình bày cách phân loại phổ biến hiện nay của các nước về hệ thống tiền tệ. Bảng 2.3 - Các loại tiền tệ và hệ thống tiền tệ hiện nay Cung Thành phần của nó ứng tiền - Tiền mặt của nhà nước M A 1 - Tiền gửi không kỳ hạn - M A M B 1 1 - Tiền gửi trong các tài khoản dùng séc (NOW accounts, credit cards ) - M1B - Các khoản gửi tiết kiệm - Các khoản gửi có kỳ hạn (ngắn) - Đơn vị nhỏ của tiền gửi có kỳ hạn (small-denomination time deposit - CDs) M2 - Trái phiếu ngắn hạn được mua lại của NHTM (overnight REPOs) - Euro đô la loại nhỏ - Tiền gửi trong các quỹ tín dụng của thị trường tiền tệ (money market fund deposits) - Tài khoản gửi ở thị trường tiền tệ (money market deposits accounts) 28
  30. Chương 2 - Hệ thống tiền tệ - M2 - Đơn vị lớn của tiền gửi có kỳ hạn (large-denomination time deposits - jumpo CDs) M 3 - Trái phiếu dài hạn được mua lại của NHTM và các hệ thống tài chính khác (RPs) - Euro đô la loại lớn - M3 - Các loại chứng thư Euro dollar lớn khác - Trái phiếu (kho bạc, công ty, đô thị) L - Cổ phiếu (kho bạc, công ty, đô thị) - Trái phiếu tiết kiệm (savings bonds) - Thương phiếu (commercila papers) Có những lưu ý đặc biệt cần thiết để nhận thức và phân biệt các loại tiền nói trên một cách dễ dàng, đó là: 1) Tất cả những loại tiền trong hệ thống trên đều là phiếu nợ (hay trái phiếu). Hoặc là phiếu nợ của chính phủ (trường hợp tiền mặt) hoặc là phiếu nợ của các NHTG, công ty, chính quyền địa phương và các tổ chức tín dụng khác 2) Hoạt tính cơ bản để chúng được gọi là tiền gồm 3 khả năng: thứ nhất, chúng có thể được dùng để trao đổi, thanh toán khi mua hoặc bán hàng hóa, sản phẩm, sức lao động, trí tuệ Ở các nước công nghiệp, tiền lương hàng tháng được trả thẳng vào tài khoản tiết kiệm của công nhân ở ngân hàng. Và vì lý do thứ nhất này, chúng không khác gì tiền mặt của nhà nước. Thứ hai, chúng có thể được dùng để mua bán hoặc chuyển nhượng hoặc đầu tư bởi vì chúng sinh ra lãi mỗi ngày ngoại trừ tiền mặt với lãi suất = 0. Cuối cùng, chúng có thể được chuyển thành tiền mặt của chính phủ vào bất cứ lúc nào. Chính khả năng thứ ba này đã làm cho chúng được chấp nhận không khác gì tiền mặt. 3) M1 (bao gồm tiền mặt của chính phủ và các khoản gửi có chứng thư trong tài khoản gửi không kỳ hạn) được gọi là tiền mạnh hay tiền theo nghĩa hẹp (narrow money) bởi vì nó là những loại tiền có hiệu lực thanh toán cao nhất, được chấp nhận rộng rãi nhất, và do vậy, nó có khả năng trao đổi mạnh nhất ở bất cứ nơi đâu và bao giờ trên lãnh thổ. Tuy nhiên, loại tiền này là một loại tài sản không sinh lợi (lãi suất của tiền mặt bằng không và lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn thì vô cùng nhỏ), cho nên, nó không có ý nghĩa như một hành động đầu tư mỗi khi chúng ta sở hữu nó. 4) Ngược lại với M1, M2, M3 và L là những loại vừa là tiền vừa là tài sản sinh lợi. Điều quan trọng ở đây là một nền kinh tế càng phát triển bao nhiêu, nhân dân càng quý thời gian, tiền bạc, tài sản và luôn luôn muốn làm lợi thêm từ những tài sản đã có. Do vậy, kinh tế càng phát triển, xu hướng nhân dân chuyển tiền từ loại không sinh lãi (M1) sang các loại cũng là tiền nhưng đem lại lãi suất (M2 - M3 - L) là càng lớn. Điều đó giải thích vì sao ở các nước công nghiệp, các loại vừa là tiền vừa là tài sản đầu tư: M2, M3, L bành trướng nhanh chóng nhiều lần hơn M1. Bởi vì giữ M1 trong tay chỉ được mỗi một điều tiện lợi là dễ dàng trong trao đổi và thanh toán. Trong khi giữ các loại tiền khác như M2, M3 và L vẫn vừa tiện lợi trong thanh toán, mà đồng thời có được điều thứ hai là nó sinh ra lợi tức mỗi ngày như một hoạt động đầu tư. 5) Tiền mặt là phiếu nợ do chính phủ phát ra. Các loại tiền còn lại trong hệ thống là phiếu nợ do NHTG và các tổ chức khác phát ra. Điều quan trọng là phải có tiền mặt của chính phủ nộp vào thì mới phát sinh các loại phiếu nợ hay tiền khác trong hệ thống. Do vậy, việc quản lý cung ứng tiền mặt là một trong các cách mà NHTW dùng để điều tiết độ lớn nhỏ của các loại tiền còn lại. Bên cạnh đó, việc phân các loại tiền hay phiếu nợ ra thành M1, M2, M3, L không phải là việc ngẫu nhiên. Mục tiêu của nó là giúp NHTW và chính phủ: (1) theo dõi mức độ đầu tư trong nước vào các loại tài sản sinh lợi, và (2) giúp nền kinh tế - trong hoàn cảnh mà các nguồn lực đều hạn chế - huy động được một cách tốt nhất tài nguyên, các nguồn tài sản (vì tiền là tài sản, 29